top of page
MicrosoftTeams-image (35).png

Báo cáo Vĩ mô – Tiền Tệ - Trái Phiếu

Báo cáo chuyên sâu về kinh tế vĩ mô và thị trường trái phiếu

24 tháng 6, 2025

Marco report - May-2025

Since early May 2025, the US–China trade negotiations have gone through three main phases: first, the 90-day “truce agreement” signed in Geneva on May 12, under which both sides agreed to cut supplementary tariffs to 10% on all tariff lines during the suspension period while retaining the previous rates (mostly 34%) to maintain “strategic leverage”; next, in early June in London, discussions focused on controlling rare earth mineral exports, with Beijing proposing to link the easing of export restrictions on these materials to a reduction in US AI chip export restrictions, while Washington continued to demand that China significantly increase its imports of US goods to narrow the trade deficit; and most recently, after two days of additional talks, President Trump announced that the new framework would impose a combined 55% tariff on Chinese imports (aggregating various existing and new rates), while China would maintain a 10% tariff on US goods.
On the US side, the 55% figure is the sum of three separate tariffs layered on most Chinese imports: (1) a 10% baseline reciprocal tariff on all Chinese tariff lines to offset the trade deficit even before accounting for other duties; (2) a 20% punitive “fentanyl” tariff; and (3) a 25% tariff under Section 301, carried over from the previous administration and primarily aimed at high-tech products and Chinese consumer goods.
Conversely, China agreed to cut its retaliatory tariff to 10% on all US exports during the 90-day suspension (lasting until around mid-August 2025); previously, Beijing’s baseline rate was 34%, with supplemental hikes peaking at 125% when including the increases on April 9 and 11, and the temporary reduction to 10% serves to stabilize the negotiations while preserving China’s “open-and-close” mechanism for this tariff in subsequent bargaining rounds.
Although some progress has been made on the agreement’s framework and high-level dialogue continues, key issues—from advanced technology controls to commitments on opening domestic markets—remain unresolved, reflecting the mixed nature of cooperation and strategic competition in the bilateral economic relationship.

Since early May 2025, the Fed has held two key meetings, both keeping the policy rate unchanged at 4.25–4.5% with a “patient and prudent” stance in light of complex inflation, growth, and external risks; the Fed emphasized that although inflation shows some cooling, it remains elevated and poses a persistent threat, while GDP and the labor market stay strong, so the committee agreed to maintain the current rate range and continue shrinking its balance sheet via tight quantitative measures, with most policymakers still expecting two rate cuts in H2 2025 but choosing to closely monitor the impact of the new US–China tariffs and the oil‐price shock on inflation before acting; indeed, according to Bloomberg, the Middle East‐driven oil price surge prompted some Fed officials to stress the need to “look through” energy volatility without ruling out the risk that prolonged high oil prices could further lift overall prices, thus bolstering support for delaying rate adjustments.
On the geopolitical risk front, since June 13, the Iran–Israel conflict has spawned multiple airstrikes on energy facilities, driving Brent crude up by over $10/barrel to nearly $78 before settling around $72–75; coupled with fears that Iran might block the Strait of Hormuz—responsible for about 20% of global oil supply—investors have baked in a risk premium, sending Dubai and Brent prices more than 5% higher in mid-June sessions, though the rise in physical oil was milder than in futures, suggesting that the physical market remains relatively undisturbed while paper trading reflects deeper concerns of wider escalation; overall, the Fed must weigh inflationary pressure from elevated oil prices against the need to support growth, even as oil remains highly sensitive to conflict developments and major-power foreign-policy moves.

24 tháng 6, 2025

Cập nhật Vĩ Mô Việt Nam 05/2025

Kể từ đầu tháng 5/2025, quá trình đàm phán thương mại Mỹ–Trung đã trải qua ba giai đoạn chính: đầu tiên là “thỏa thuận ngừng bắn” 90 ngày được ký tại Geneva ngày 12/5, theo đó cả hai bên đồng ý hạ mức thuế bổ sung xuống 10% trên mọi dòng hàng trong kỳ tạm hoãn, song vẫn giữ lại các mức thuế trước đó (phần lớn là 34%) nhằm duy trì “đòn bẩy chiến lược”. Tiếp theo, vào đầu tháng 6 tại London, các cuộc trao đổi tập trung vào kiểm soát xuất khẩu khoáng sản đất hiếm, khi Bắc Kinh đề nghị liên kết việc nới lỏng hạn chế xuất khẩu nguyên liệu này với việc Mỹ giảm quy định về xuất khẩu chip AI, đồng thời Washington tiếp tục yêu cầu Trung Quốc tăng mạnh khối lượng nhập khẩu hàng hóa Mỹ để thu hẹp thâm hụt thương mại. Gần đây nhất, sau hai ngày đàm phán bổ sung, Tổng thống Trump thông báo khung thỏa thuận mới sẽ áp tổng cộng 55% mức thuế lên hàng Trung Quốc (tổng hợp từ nhiều mức thuế hiện hành và bổ sung), trong khi Trung Quốc duy trì áp thuế 10% lên hàng Mỹ:
Về phía Mỹ, con số 55% là tổng hợp của ba mức thuế riêng biệt được “chồng lên” nhau trên hầu hết hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc: (1) 10% thuế đối ứng cơ bản trên toàn bộ dòng hàng Trung Quốc, nhằm cân bằng thâm hụt thương mại ngay cả khi chưa tính các mức thuế khác; (2) Thuế trừng phạt 20% đối với fentanyl; (3) 25% thuế theo Đạo luật 301 vốn đã được áp dụng từ nhiệm kỳ trước, chủ yếu nhắm vào các sản phẩm công nghệ cao và hàng tiêu dùng Trung Quốc.
Ngược lại, Trung Quốc đồng ý hạ mức trả đũa xuống còn 10% trên toàn bộ hàng xuất khẩu từ Mỹ trong kỳ tạm hoãn 90 ngày (kéo dài đến khoảng giữa tháng 8/2025). Trước đó, mức thuế trả đũa cơ bản của Bắc Kinh là 34%, và từng có những đợt tăng bổ sung đưa lên đỉnh điểm 125% (khi tính cả các dòng thuế tăng thêm ngày 9 và 11 tháng 4). Việc hạ xuống 10% chỉ là biện pháp tạm thời để giữ ổn đàm phán, đồng thời giúp Trung Quốc duy trì “cơ chế mở và đóng” đối với mức thuế này ở các vòng thương lượng sau.
Dù đạt được một số bước tiến về khuôn khổ thỏa thuận và tiếp tục đối thoại cấp cao, các vấn đề then chốt—từ kiểm soát công nghệ cao đến cam kết mở cửa thị trường nội địa—vẫn còn bỏ ngỏ, phản ánh bản chất pha trộn giữa hợp tác lẫn cạnh tranh chiến lược của quan hệ kinh tế song phương.

Từ đầu tháng 5/2025 đến nay, Fed đã tổ chức hai cuộc họp chính đều giữ nguyên lãi suất chính sách ở vùng 4,25–4,5% với quan điểm “kiên nhẫn thận trọng” trước diễn biến phức tạp của lạm phát, tăng trưởng và rủi ro bên ngoài. FED nhấn mạnh rằng dù lạm phát có dấu hiệu hạ nhiệt phần nào, nhưng vẫn ở mức cao và tiềm ẩn nguy cơ dai dẳng, đồng thời GDP và thị trường lao động tiếp tục vững mạnh, nên ủy ban nhất trí duy trì phạm vi lãi suất hiện hành và tiếp tục thu hẹp bảng cân đối kế toán thông qua chính sách định lượng chặt chẽ, phần lớn nhà hoạch định chính sách vẫn kỳ vọng có thể giảm hai lần trong nửa cuối 2025 nhưng sẽ quan sát chặt chẽ tác động của mức thuế quan Mỹ–Trung mới và cú sốc giá dầu đối với lạm phát trước khi hành động. Thậm chí, theo Bloomberg, đợt tăng vọt của giá dầu do căng thẳng Trung Đông đã khiến một số quan chức Fed nhấn mạnh cần “nhìn qua” biến động năng lượng nhưng không loại trừ khả năng giá dầu cao kéo dài sẽ đẩy mặt bằng giá chung tăng thêm, cổ đông vì thế càng ủng hộ việc chậm điều chỉnh lãi suất.
Về phần rủi ro địa chính trị, xung đột trực tiếp giữa Iran và Israel đã "bùng phát lại" dưới dạng một cuộc đối đầu toàn diện bắt đầu từ ngày 13/6 với nhiều đợt không kích nhằm vào cơ sở năng lượng, khiến giá dầu Brent có lúc tăng hơn 10 USD/thùng, đạt đỉnh gần 78 USD trước khi lùi xuống quanh vùng 72–75 USD. Cộng thêm mối lo ngại Iran có thể phong tỏa eo biển Hormuz—nguồn cung khoảng 20% dầu toàn cầu—các nhà đầu tư đã “găm” phụ phí rủi ro, đẩy giá Dubai và Brent cùng nhảy vọt hơn 5% trong các phiên giữa tháng 6. Tuy nhiên, mức tăng của dầu thực nhẹ hơn dầu kỳ hạn cho thấy thị trường vật chất chưa bị gián đoạn nghiêm trọng, còn các giao dịch giấy tờ đang phản ánh nhiều nỗi lo về khả năng leo thang rộng hơn. Nhìn chung, Fed đang phải cân đối giữa áp lực lạm phát từ dầu cao và nhu cầu hỗ trợ tăng trưởng, trong khi giá dầu vẫn dễ bị tác động mạnh bởi diễn biến chiến sự và chính sách đối ngoại của các cường quốc.


18 tháng 6, 2025

Quick report

NEW REGULATIONS ON PRIVATE PLACEMENT BONDS: PROTECTING INVESTORS, PROMOTING FINANCIAL TRANSPARENCY – RESHAPING CAPITAL‑RAISING STRUCTURES

In the discussion and voting session on 17/06/2025, the XV National Assembly focused on considering and approving the Law amending and supplementing certain articles of the Enterprise Law No. 59/2020/QH14, which had itself been amended and supplemented by Law No. 03/2022/QH15. The main content of yesterday’s amendments are to tighten the conditions for private corporate bond issuance: non‑public (ie unlisted) companies are only allowed to issue bonds when their total liabilities (including the value of bonds intended for issuance) do not exceed five times the issuing organization’s equity, as shown in the audited financial statements for the year immediately preceding the issuance; exceptions apply to issuers that are state‑owned enterprises, enterprises issuing bonds to implement real estate projects, credit institutions, insurance companies, reinsurance companies, insurance brokerage companies, securities companies, and securities investment fund management companies operating under relevant legal provisions. The law will take effect on 01/07/2025.

18 tháng 6, 2025

Báo cáo nhanh

QUY ĐỊNH MỚI VỀ TRÁI PHIẾU RIÊNG LẺ: BẢO VỆ NHÀ ĐẦU TƯ, KHUYẾN KHÍCH MINH BẠCH TÀI CHÍNH – ĐỊNH HÌNH LẠI CẤU TRÚC HUY ĐỘNG VỐN

Trong phiên thảo luận và biểu quyết 17/06/2025, Quốc hội khóa XV đã tập trung xem xét và thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 03/2022/QH15. Nội dung trọng tâm là siết chặt điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ: chỉ cho phép doanh nghiệp chưa đại chúng phát hành khi có nợ phải trả (bao gồm giá trị trái phiếu dự kiến phát hành) không vượt quá 05 lần vốn chủ sở hữu của tổ chức phát hành theo báo cáo tài chính năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán; ngoài trừ tổ chức phát hành là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp phát hành trái phiếu để thực hiện dự án bất động sản, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan; luật sẽ có hiệu lực từ ngày 01/07/2025.

23 tháng 5, 2025

Báo Cáo Trái Phiếu Tháng 04/2025

Trái phiếu Chính Phủ
Sơ cấp: Trong T4/2025, Kho bạc Nhà nước đã tổ chức 20 phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ, với tổng giá trị gọi thầu đạt 63.500 tỷ đồng và tỷ lệ trúng thầu ở mức 64,7% giảm so với tháng trước (tháng 3 tỷ lệ trúng thầu đạt mức 84%). Tính chung 4T/2025, tổng giá trị trái phiếu Chính phủ phát hành qua đấu thầu đạt gần 153 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 30,6% kế hoạch cả năm (500.000 tỷ đồng). Giá trị đấu thầu và tỷ lệ trúng thầu giảm so với tháng trước (tháng đỉnh điểm) dẫn tới giá trị trúng thầu giảm gần 33% so với tháng trước nhưng tăng hơn 53% so với cùng kỳ. Qua đây có thể thấy Chính Phủ vẫn đang rất tích cực trong việc phát hành nhằm đạt được kế hoạch đề ra trong năm. Mức lãi suất trúng thầu trung bình trong tháng tăng nhẹ so với tháng trước, mức lãi suất đấu thầu và trúng thầu không quá biến động so với tháng trước. Chúng tôi vẫn duy trì quan điểm mặt bằng lãi suất trái phiếu Chính Phủ thị trường sơ cấp sẽ không quá biến động mạnh trong giai đoạn còn lại của nằm từ các yếu tố nỗ lực duy trì mặt bằng lãi suất thấp nhằm phục vụ tăng trưởng kinh tế.
Thứ cấp: Giao dịch Outright đạt khoảng 169,4 nghìn tỷ đồng (giảm 29,1% so với tháng trước), trong khi Repo ở mức 80,9 nghìn tỷ đồng (giảm 25,7%). Tại thị trường giao dịch outright, mặt bằng lợi suất kỳ hạn chủ đạo 5-10 và 10-15 năm đã có sự suy giảm nhẹ so với đà tăng nhẹ của tháng trước, tại thị trường giao dịch repo tuy ghi nhận mức lợi suất tăng nhẹ nhưng không đáng kể. Do vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục cho rằng mặt bằng lợi suất TPCP sẽ không quá biến động trong giai đoạn sắp tới khi thanh khoản đang được NHNN tích cực hỗ trợ trong hệ thống ngân hàng.
Trái phiếu doanh nghiệp :
Sơ cấp : Trong T4/2025 có khoảng 20 đợt phát hành trái phiếu riêng lẻ trị giá hơn 35 nghìn tỷ đồng và 2 đợt phát hành ra công chúng với tổng trị giá 4 nghìn tỷ đồng. Lãi suất coupon tiếp tục giữ mức độ ổn định ở ngành BĐS nhưng ghi nhận giảm nhẹ ở ngành Ngân hàng. Chúng tôi dự báo lãi suất nhiều khả năng sẽ giữ ổn định, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng. Ngân hàng thương mại vẫn là đầu mối phát hành trái phiếu chủ lực, thu hút vốn trung–dài hạn phục vụ mở rộng tín dụng. Các gói giải pháp mới của Chính phủ (giảm áp lực tài chính cho chủ đầu tư bất động sản và ưu đãi thuế cho dự án xanh) sẽ thúc đẩy thị trường trái phiếu bất động sản, nhưng ngắn hạn vẫn còn rủi ro do tính chất riêng của từng lô phát hành. Do đó, cần thận trọng kiểm tra hồ sơ tín dụng, đánh giá lịch trả nợ, ưu tiên trái phiếu có tài sản đảm bảo chất lượng và theo dõi sát diễn biến chính sách tiền tệ và thanh khoản thị trường.
Thứ cấp: Trên thị trường thứ cấp, tổng giá trị giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ trong tháng 4/2025 đạt 100 nghìn tỷ đồng. Trong đó giá trị giao dịch các lô trái phiếu bất động sản chiếm tỷ trọng khá lớn bên cạnh ngành ngân hàng. Mức lợi suất ghi nhận có xu hướng không quá biến động. Dù vậy ghi nhận sự giảm nhẹ từ ngành bất động sản và gia tăng nhẹ từ ngành ngân hàng phản ảnh phần nào vế sự hưng phấn của thị trường về trái phiếu bất động sản và ngược lại cho ngành ngân hàng ở thị trường thứ cấp.
Trong tháng 4, các doanh nghiệp thực hiện mua lại hơn 12 nghìn tỷ đồng trái phiếu trước hạn, giảm 33% so với cùng kỳ năm 2024. Giá trị đáo hạn còn lại trong năm 2025 ghi nhận hơn 152 nghìn tỷ đồng và phần lớn dồn vào quý 3 với gần 80 nghìn tỷ đồng. Trong đó giá trị đáo hạn ngành bất động sản ghi nhận hơn 80 nghìn tỷ đồng, trong đó lớn nhất là các lô trái phiếu của Vinhome với tổng giá trị sắp đáo hạn trong năm là 9 nghìn tỷ đồng, kế đến là công ty Đầu tư Quang Thuận với giá trị trái phiếu sắp đáo hạn là 6 nghìn tỷ đồng.

20 tháng 5, 2025

Marco report - April-2025

The global economy in 2025 continues to face a multitude of complex factors. Full-year GDP growth is forecast to come in below last year’s rate (under 3%). The Fed still maintains its policy rate around 4.25–4.50%, which constrains Vietnam’s domestic monetary-policy space. At the same time, trade tensions and geopolitical risks remain latent. On the supply-chain front, Vietnam is also under pressure to ensure full traceability of goods’ origins (having committed to tightening inspections against trade fraud). Vietnam’s economy sustains a high growth momentum but is confronting a range of new challenges. Priority measures include: continuing to implement flexible monetary policy to keep inflation low so as to support growth and prevent excessive exchange-rate pressures; accelerating the disbursement of public investment and improving the business environment to stimulate private-sector investment and attract FDI; diversifying export markets and sources of imported inputs to mitigate risks from global volatility.
In this context, Politburo Resolution No. 68-NQ/TW signed on May 4, 2025 regarding the development of the private economy marks a watershed moment (in terms of policy stance rather than economic direction) by officially elevating the private sector to the “most important force” of the economy, with a vision to develop the private economy rapidly, sustainably, efficiently and at high quality, positioning it as the principal driver of the national economy and as a pioneer in applying science and technology, fostering innovation and driving digital transformation, with the objective that by 2030 there will be 2 million enterprises operating within the economy, the emergence of 20 major private corporations capable of participating in global value chains, and by 2045 to advance Vietnam to high-income country status. Some key highlights of the resolution: (1) Simplification of administrative procedures and streamlined processes: cutting at least 30 % of time, costs and paperwork related to registration, licensing and post-licensing inspections; (2) Tax reform and financial incentives: abolition of the fixed-tax regime for business households by 2026 to encourage their conversion into registered enterprises, and corporate income tax incentives for research and development expenditures; (3) Equality with state-owned enterprises (SOEs): ensuring that private firms have access to incentives, resources and markets on par with SOEs, expanding SOE equitization and encouraging private participation in investment, governance and shareholding of state enterprises. The resolution provides extensive support for SMEs, including (1) access to and diversification of funding sources; (2) infrastructure, land allocation and reduction of occupancy costs; (3) enhancement of management capacity and streamlining of compliance expenses; (4) strengthening of value-chain integration; (5) promotion of long-term investment and capital protection; (6) tax and financial incentives, whereby newly established SMEs may receive corporate income tax exemptions or reductions during their initial years of operation; and (7) legal assistance, capacity building and digital-transformation support. Additionally, the resolution elevates the status of entrepreneurs in society through a targeted communications campaign and the enhancement of the legal framework for protection, dispute resolution and bankruptcy proceedings, aiming to ignite the entrepreneurial spirit and drive sustainable innovation.

An official policy statement of intent is often important to accelerate existing economic trends in the economy. The evidence we cite for this economic trend is outstanding debt in the banking system for the state-owned enterprise (SOE) sector that has gradually narrowed throughout the period from 2010 to now, with the share of outstanding loans to SOEs dropping from over 24% in 2010 to only 3.6% in 2024 (trend accelerates after 2013 and the formation of the VAMC). This, under the credit growth steering policy supporting economic growth, shows that the State Bank is still focusing resources increasingly towards the non-state enterprise sector. In addition, we can also recognize additional signs that the role of private enterprises has held and continues to hold an important position in the economy, namely their deeper and broader participation in national‐key projects such as Long Thành Airport; Trung Lương – Mỹ Thuận Expressway and Mỹ Thuận 2 Bridge; Bến Thành – Suối Tiên Metro Line in Ho Chi Minh City; Nhổn – Hà Nội Metro Line; Bắc Giang – Lạng Sơn Expressway; Long Thành – Dầu Giây Expressway expansion project; Hưng Yên Bridge; Cần Thơ 2 Bridge; and Duyên Hải 3 Thermal Power Plant expansion. Private enterprises participate as BOT investors, EPC contractors, equipment suppliers, consultants, constructors, and operators after project completion. Their involvement not only supplements financial resources but also helps improve construction efficiency, shorten project timelines, and enhance the quality of these projects.

A high growth target is a major challenge when internal drivers, though still stable, have not been fully optimized. Therefore, enterprises need to proactively develop flexible business planning scenarios to adjust investment strategies, scale expansion, and business operations. The growth target is symbolic, reflecting the aspiration to enter a “new era” for the country, but rather than chasing numbers, enterprises should prioritize enhancing internal capabilities—focusing on automation, improving labor productivity, and developing product quality—alongside increasing localization to maintain export competitiveness. To become a reliable link in the global value chain, beyond competing on price, enterprises must reposition themselves by raising quality, building brand and service, and simultaneously promoting investment in green standards (ESG), R&D, and digital transformation to ensure stability and high adaptability. In addition, private enterprises must proactively engage in policy formulation, while improving internal governance, transparency, and strengthening connections with the policy system. The current institutional reforms—streamlining the apparatus, restructuring district-level government, and renewing the legal framework—are long-term in nature, so enterprises need to develop mid- and long-term strategies based on the assumption of an increasingly stable policy environment but remain flexible to respond to political changes, avoiding overreliance on any single policy. Finally, to achieve breakthrough growth, enterprises must develop operational capabilities within a new ecosystem—legitimate, transparent, in-depth, and oriented toward global standards—not only to consolidate their position but also to become a key driver of economic development.

20 tháng 5, 2025

Cập nhật Vĩ Mô Việt Nam 04/2025

Kinh tế thế giới năm 2025 tiếp tục đối mặt với nhiều yếu tố phức tạp. Dự báo tăng trưởng GDP toàn thấp hơn năm trước (dưới 3%). Fed vẫn duy trì lãi cơ bản quanh 4,25–4,5%, điều này hạn chế không gian chính sách tiền tệ của Việt Nam. Đồng thời, căng thẳng thương mại và địa chính trị vẫn tiềm ẩn. Về chuỗi cung ứng, Việt Nam cũng đang chịu sức ép phải minh bạch nguồn gốc xuất xứ hàng hóa (Việt Nam đã cam kết thắt chặt kiểm tra gian lận thương mại). Nền kinh tế Việt Nam duy trì đà tăng trưởng cao nhưng đang đương đầu với nhiều thách thức mới. Các giải pháp ưu tiên bao gồm: tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, giữ lạm phát ở mức thấp để hỗ trợ tăng trưởng và ngăn áp lực tỷ giá quá mạnh; đẩy nhanh giải ngân đầu tư công và cải thiện môi trường kinh doanh để kích thích đầu tư tư nhân và thu hút FDI; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và nguồn nguyên liệu nhập khẩu để giảm thiểu rủi ro từ biến động toàn cầu.
Trong bối cảnh này, Nghị quyết số 68-NQ/TW được ký ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, đánh dấu bước ngoặt (về lập trường chính sách thay vì hướng đi kinh tế) khi chính thức nâng tư nhân thành “lực lượng quan trọng nhất” của nền kinh tế. Với tầm nhìn phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả và chất lượng cao, trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, đồng thời tiên phong trong việc ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, hình thành 20 tập đoàn tư nhân lớn có khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và đến 2045 đưa Việt Nam trở thành nước thu nhập cao. Một vài tiêu điểm trong nghị quyết: (1) Đơn giản hóa thủ tục hành chính và rút ngắn quy trình: cắt giảm ít nhất 30 % thời gian, chi phí và thủ tục giấy tờ liên quan đến đăng ký, cấp phép và kiểm tra sau cấp phép. (2) Cải cách thuế và khuyến khích tài chính: bãi bỏ thuế khoán đối với hộ kinh doanh (đến năm 2026) để khuyến khích họ chuyển thành doanh nghiệp đăng ký. Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho các khoản chi nghiên cứu và phát triển. (3) Bình đẳng với doanh nghiệp nhà nước (DNNN): Đảm bảo tư nhân được tiếp cận các ưu đãi, nguồn lực và thị trường tương đương DNNN. Mở rộng cổ phần hóa DNNN, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư, quản trị và sở hữu cổ phần doanh nghiệp nhà nước. Trong nghị quyết đề cập khá nhiều đến việc hỗ trợ các doanh nghiệp SMEs như: (1) tiếp cận và đa dạng hóa nguồn vốn; (2) Hạ tầng, đất đai và giảm chi phí mặt bằng; (3) Nâng cao năng lực quản trị và giảm chi phí tuân thủ; (4) Tăng cường liên kết chuỗi giá trị; (5) Khuyến khích đầu tư dài hạn và bảo hộ vốn; (6) Ưu đãi thuế và tài chính: SMEs mới thành lập có thể được miễn, giảm thuế TNDN trong những năm đầu hoạt động. (7) hỗ trợ pháp lý, đào tạo và chuyển đổi số. Bên cạnh đó, nghị quyết còn nâng cao vị thế của doanh nhân trong xã hội thông qua chiến dịch truyền thông và cải thiện khung pháp lý về bảo vệ, giải quyết tranh chấp và phá sản, nhằm khơi dậy tinh thần khởi nghiệp và thúc đẩy đổi mới sáng tạo bền vững.

Chúng tôi cho rằng nghị quyết 68 là một tuyên bố chính sách chính thức về ý định và đóng vai trò rất quan trọng để thúc đẩy các xu hướng hiện có trong nền kinh tế. Bởi lẽ, vốn dĩ vai trò của doanh nghiệp tư nhân vốn đã được hình thành và xây dựng trong suốt giai đoạn vừa qua. Một trong các bằng chứng chúng tôi trích dẫn cho xu hướng kinh tế này là dư nợ trong hệ thống ngân hàng dành cho khối doanh nghiệp Nhà Nước (DNNN) đã thu hẹp dần trong suốt giai đoạn từ năm 2010 đến nay với tỷ trọng dư nợ cho vay DNNN từ hơn 24% trong năm 2010 chỉ còn 3,6% trong năm 2024 (xu hướng tăng tốc sau năm 2013 và việc thành lập VAMC). Điều này dưới chính sách điều hành tăng trưởng tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế thì ngân hàng nhà nước vẫn đang tập trung nguồn lực đẩy dần về khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ngoài ra, chúng ta vẫn có thể nhận ra thêm một vài dấu hiệu cho thấy vai trò của doanh nghiệp tư nhân đã và đang chiếm vị thế quan trọng trong nền kinh tế đó là việc tham gia sâu hơn và rộng hơn vào các dự án mang tính trọng điểm Quốc Gia như Sân bay Long Thành; cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận và cầu Mỹ Thuận 2; tuyến Metro Bến Thành – Suối Tiên ở TP HCM; tuyến Metro Nhổn – Ga Hà Nội; cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn; dự án mở rộng cao tốc Long Thành – Dầu Giây; cầu Hưng Yên; cầu Cần Thơ 2; và Nhiệt điện Duyên Hải 3 mở rộng. Các doanh nghiệp tư nhân tham gia với vai trò nhà đầu tư BOT, nhà thầu EPC, cung cấp thiết bị, tư vấn, thi công và quản lý vận hành sau khi công trình hoàn thành. Sự góp mặt của khu vực tư nhân không chỉ bổ sung nguồn lực tài chính mà còn giúp nâng cao hiệu quả thi công, rút ngắn tiến độ và cải thiện chất lượng các dự án này.

Mục tiêu tăng trưởng cao là thách thức lớn khi các động lực nội tại dù vẫn ổn định nhưng chưa được tối ưu hóa hoàn toàn. Do vậy, doanh nghiệp cần chủ động xây dựng kịch bản kinh doanh linh hoạt để điều chỉnh chiến lược đầu tư, mở rộng quy mô và hoạt động sản xuất kinh doanh. Mục tiêu tăng trưởng mang tính biểu tượng, thể hiện khát vọng bước vào “kỷ nguyên mới” của đất nước, nhưng thay vì chạy theo con số, doanh nghiệp nên ưu tiên nâng cao năng lực nội tại—tập trung vào tự động hóa, cải thiện năng suất lao động và phát triển chất lượng sản phẩm—cùng với việc gia tăng tỉ trọng nội địa hóa để giữ vững lợi thế xuất khẩu. Để trở thành mắt xích tin cậy trong chuỗi giá trị toàn cầu, ngoài cạnh tranh về giá, các doanh nghiệp cần định vị lại mình thông qua nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu và dịch vụ, đồng thời thúc đẩy đầu tư vào các tiêu chuẩn xanh (ESG), R&D và chuyển đổi số nhằm đảm bảo tính ổn định và khả năng thích ứng cao. Bên cạnh đó, doanh nghiệp tư nhân phải chủ động tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, đồng thời cải thiện quản trị nội bộ, minh bạch thông tin và tăng cường kết nối với hệ thống chính sách. Những cải cách thể chế hiện hành—tinh gọn bộ máy, tái cấu trúc chính quyền cấp huyện và đổi mới khung pháp lý—mang tính chất dài hạn, do đó doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược trung và dài hạn dựa trên giả định môi trường chính sách ngày càng ổn định nhưng vẫn linh hoạt ứng phó khi có thay đổi chính trị, tránh phụ thuộc vào một chính sách duy nhất. Cuối cùng, để đạt được tăng trưởng đột phá, doanh nghiệp phải phát triển năng lực vận hành trong một hệ sinh thái mới—có tính chính danh, minh bạch, sâu sắc và hướng đến chuẩn mực toàn cầu—không chỉ củng cố vị thế mà còn trở thành nhân tố chủ lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

24 tháng 4, 2025

Báo Cáo Trái Phiếu Tháng 03/2025

Trái phiếu Chính Phủ
Sơ cấp: Trong tháng 3/2025, Kho bạc Nhà nước đã tiến hành đấu thầu 15 phiên trái phiếu Chính phủ, với tổng giá trị gọi thầu đạt 76.500 tỷ đồng và tỷ lệ trúng thầu đạt 85,4%. Trái phiếu kỳ hạn 10 năm chiếm phần lớn giá trị trúng thầu với con số hơn 60 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 92,6%. Tổng giá trị trái phiếu Chính phủ được phát hành qua hình thức đấu thầu trong 3T/2025 đạt hơn 110 nghìn tỷ đồng, tương đương hơn 22% so với kế hoạch cả năm (500 nghìn tỷ đồng) và đạt 99,5% mục tiêu quý I (111 nghìn tỷ đồng). Lãi suất trúng thầu trung bình được ghi nhận không quá biến động so với tháng trước. Qua đây có thể thấy rằng sự thành công trong nổ lực huy động nguồn vốn nhằm phục vụ kế hoạch đẩy mạnh phát triển đầu tư công và cơ sở hạ tầng trong năm theo kế hoạch đề ra của Chính Phủ.
Thứ cấp: Trong tháng 3/2025, nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục mua ròng trái phiếu Chính phủ trị giá 989 tỷ đồng, giúp tổng giá trị mua ròng của khối ngoại từ đầu năm đạt hơn 2,3 nghìn tỷ đồng. Dù mặt bằng lợi suất kỳ hạn chủ đạo 5-10 năm có gia tăng nhẹ so với tháng trước (từ mức 2,78% lên 2,91%) nhưng chúng tôi cho rằng mặt bằng lợi suất TPCP sẽ không quá biến động trong giai đoạn sắp tới khi thanh khoản đang được NHNN tích cực hỗ trợ trong hệ thống ngân hàng.
Trái phiếu doanh nghiệp sơ cấp :
Trong T3/2025 có 1 đợt phát hành trái phiếu riêng lẻ trị giá 500 tỷ đồng và 4 đợt phát hành ra công chúng với tổng trị giá hơn 10 nghìn tỷ đồng. Trong tháng này, các doanh nghiệp đã mua lại trái phiếu trước hạn với giá trị hơn 5,4 nghìn tỷ đồng, giảm 45% so với cùng kỳ năm 2024. Trên thị trường thứ cấp, tổng giá trị giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ đạt hơn 120 nghìn tỷ đồng trong tháng 3.
Lãi suất coupon tiếp tục giữ mức độ ổn định. Chúng tôi cho rằng mức lãi suất sẽ tiếp tục không biến động mạnh trong thời gian tới phù hợp với chiến lược của Chính phủ trong việc duy trì ổn định lãi suất hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Các tổ chức tín dụng vẫn là đối tượng chính phát hành trái phiếu nhằm thu hút nguồn vốn trung và dài hạn hỗ trợ tăng trưởng tín dụng, đồng thời đáp ứng xu hướng thị trường.
Không ghi nhận bất kỳ đợt phát hành trái phiếu bất động sản trong tháng 3/2025. Tuy nhiên, với triển vọng vĩ mô ổn định, chính sách tiền tệ duy trì mặt bằng lãi suất hợp lý, cùng khung quy định minh bạch và quản lý rủi ro được hoàn thiện, thị trường kỳ vọng sẽ khởi sắc trở lại từ quý II/2025, khi nhà đầu tư có nhiều cơ hội tiếp cận sản phẩm trái phiếu với lợi suất hấp dẫn và nguồn vốn đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu tài trợ cho các dự án bất động sản quy mô lớn.
Giá trị mua lại trái phiếu trước hạn ghi nhận thấp phù hợp với hiện trạng đầu năm. Giá trị đáo hạn chiếm tỷ trọng lớn trong quý 3 với ngành chủ đạo là bất động sản.
Trong quý 1/2025, tổng giá trị mua lại trước hạn trái phiếu doanh nghiệp đạt gần 27 nghìn tỷ đồng (+11% YoY). Vốn là ngành luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị mua lại trái phiếu trước hạn nhưng trong quý đầu năm 2025 giá trị mua lại trước hạn của ngành ngân hàng khá thấp chỉ đạt hơn 4 nghìn tỷ đồng. Điều ngày khá tương đồng với các năm trước, chúng tôi cho rằng ngành ngân hàng sẽ tăng mạnh giá trị mua lại trong giai đoạn 2 quý cuối năm nhằm tái cơ cấu nguồn vốn phù hợp với chiến lược và thực trạng của nền kinh tế.
Giá trị trái phiếu đáo hạn của ngành bất động sản phần lớn nằm ở quý 3 năm nay với hơn 43 nghìn tỷ đồng.

18 tháng 4, 2025

Marco report - March-2025

MODEL FIRST ORDER EFFECTS OF TWO TARIFF SCENARIOS
No trade war is good for any country.
Even if the tariffs applied to Vietnam-manufactured goods entering the US at present are significantly lower than China’s, the uncertainty created on investment decisions is impossible to model. Our report models the impact of a positive outcome in trade negotiations consummated before the July 9th deadline and a negative outcome:
Positive scenario: 10% baseline tariff is kept beyond July 9th with a carve-out for electronics items at 0% tariffs
Negative scenario: 28% general tariff is applied with a carve-out for electronic items at 15% tariffs
Tariff situation at present
What the US currently applies on imports from the rest of the world is a patchwork of tariffs that includes pre-2025 tariffs, steel/aluminium/auto tariffs, Fentanyl tariffs, reciprocal tariffs and a base rate. Fentanyl tariffs were applied to China, Mexico and Canada. Vietnam does not have meaningful exports of steel/aluminium/auto to the US. Reciprocal tariffs of 46% were announced on April 2nd but there is currently a 90 day pause to give a window for negotiations. The base rate applicable to Vietnam is 10%.
Readers should note that the US has two significant carve-outs to the aforementioned regime:
Electronic items shipped into US do not carry any reciprocal or baseline tariffs but they do not escape Fentanyl related tariffs.
Goods imported under United States-Mexico-Canada Agreement (USMCA) and this agreement covered 50% of Mexican imports into the USA and 38% of Canadian imports into the USA in 2024
The US administration is fixated with trade surpluses rather than the tariff levels of its trading partners
The placard that President Trump held up had a middle column labelled as “Tariffs Charged to the USA” and this was calculated by dividing the trade surplus of that particular country by the amount that the US imports from that particular country. Subsequent announcements from the White House have simply emphasized that the focus is on narrowing the trade surplus of countries singled out with reciprocal tariffs rather comparing tariff levels between singled out countries and what the USA applies to that country. This approach obviously disadvantages Vietnam. In 2024, Vietnam achieved a trade surplus of close to USD104bn with the USA
No country targeted with reciprocal tariffs has yet secured a deal
White House stated that 70 countries have reached out to try to cut a deal to lower reciprocal tariffs. As of the time of writing this report no country within that list of 70 countries has secured a deal.
Our modelling just forecasts first-order effects of two scenarios
We base our modelling on the following assumptions:
Ước tính độ co dãn áp dụng cho các dòng sản phẩm xuất khẩu/nhập khẩu được lấy từ nhiều tổ chức nghiên cứu khác nhau, bao gồm USDA, Cục . Kinh tế, Journal of Economic Perspectives và American Economic Review
Organic growth in exports from Vietnam to US are assumed to be 1% given that consensus estimates do not yet forecast for the US to enter recession. We add 0.5 ppt to this to assume some China production is transferred to Vietnam for production to avoid punitive tariffs currently applied to Chinese exports
Vietnam exports to non-US markets are assumed to grow at 2% relative to 2024 to reflect increase competition (as opposed to 11% achieved in 2024)
Our findings are…
Positive scenario: Export value to the United States is projected to exceed USD 112 billion (-6.2% YoY), with total exports to all markets reaching over USD 404 billion (-0.4% YoY).
Negative scenario: Export value to the United States is expected to reach only around USD 98 billion (-18% YoY), with total exports to all markets falling to just over USD 390 billion (-3.9% YoY).
Compared to the initial target required to achieve 8% GDP growth, the export goal of over USD 450 billion (+12% YoY) to secure a trade surplus of USD 30 billion remains a significant challenge.
Therefore, we will also continue to provide a set of assumptions to develop two GDP growth scenarios based on the expenditure approach:
Positive scenario: Total import value is expected to reach USD 390 billion (+2.5% YoY), based on the assumption that Vietnam continues to import inputs for production and re-export to other markets, resulting in a trade surplus of USD 13 billion. Private investment is projected to grow by 9% YoY (2024: +13% YoY), public investment by 10% YoY (2024: +16.8% YoY), and household consumption by 9% YoY (2024: +14% YoY), assuming unchanged margins of error. Under this scenario, we estimate GDP growth to reach 6.6%.
Negative scenario: Total import value is projected at USD 378 billion (-0.8% YoY), based on the assumption that declining exports will lead to reduced import demand, resulting in a trade surplus of USD 12 billion. Private investment is expected to grow by only 7% YoY, while public investment is projected to increase by 13% YoY—higher than in the positive scenario, assuming the government intensifies support measures for the economy. Household consumption is forecast to grow by 8% YoY. Assuming a constant margin of error, we estimate GDP growth under this scenario to reach 5.4%.

18 tháng 4, 2025

Cập nhật Vĩ Mô Việt Nam 03/2025

DỰ BÁO MÔ PHỎNG CÁC HIỆU ỨNG BAN ĐẦU VỚI HAI KỊCH BẢN THUẾ QUAN
Chiến tranh thương mại không đem lại lợi ích cho bất kỳ quốc gia nào
Ngay cả khi các mức thuế quan áp dụng đối với hàng hóa sản xuất tại Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ hiện nay thấp hơn đáng kể so với của Trung Quốc, thì sự bất định được trên các quyết định đầu tư là điều mà không thể mô phỏng được. Báo cáo của chúng tôi mô phỏng tác động của các cuộc đàm phán thương mại được hoàn tất trước hạn chót ngày 9/7 gồm hai kịch bản:
Tích cực: Mức thuế cơ bản 10% được giữ nguyên sau ngày 9/7 với một ngoại lệ cho các mặt hàng điện tử với mức thuế 0%
Tiêu cực: Áp dụng mức thuế chung 28% với một ngoại lệ cho các mặt hàng điện tử với mức thuế 15%
Tình hình thuế quan hiện tại
Những mức thuế mà Hoa Kỳ hiện đang áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ các quốc gia khác trên thế giới là sự kết hợp của nhiều mức thuế khác nhau bao gồm: mức thuế trước năm 2025, mức thuế đối với thép/nhôm/ô tô, mức thuế Fentanyl, mức thuế đối ứng và mức thuế cơ bản. Mức thuế Fentanyl được áp dụng đối với Trung Quốc, Mexico và Canada. Việt Nam không có xuất khẩu chủ đạo về thép/nhôm/ô tô sang Hoa Kỳ. Mức thuế đối ứng 46% được thông báo vào ngày 02/04/2025, tuy nhiên hiện đang có thời gian hoãn 90 ngày để tạo cơ hội cho các cuộc đàm phán. Mức thuế cơ bản áp dụng đối với Việt Nam hiện tại là 10%.
Cần lưu ý rằng Hoa Kỳ có hai trường hợp đặc biệt quan trọng:
Các mặt hàng điện tử nhập khẩu vào Hoa Kỳ không chịu mức thuế đối ứng hay thuế cơ bản, nhưng vẫn phải chịu mức thuế liên quan đến Fentanyl.
Hàng hóa nhập khẩu theo Hiệp định Hoa Kỳ-Mexico-Canada (USMCA), hiệp định này đã bao phủ 50% tổng giá trị hàng nhập khẩu từ Mexico vào Hoa Kỳ và 38% hàng nhập khẩu từ Canada vào Hoa Kỳ trong năm 2024.
Chính quyền Hoa Kỳ tập trung vào thặng dư thương mại thay vì các mức thuế quan của các đối tác thương mại
Bảng hiệu mà Tổng thống Trump giơ lên có một cột giữa được dán nhãn là “Thuế đánh vào Hoa Kỳ”, và con số này được tính bằng cách chia thặng dư thương mại của quốc gia đó cho số tiền Hoa Kỳ nhập khẩu từ quốc gia đó. Những thông báo sau đó từ Nhà Trắng chỉ nhấn mạnh rằng trọng tâm là thu hẹp thặng dư thương mại của các quốc gia bị chỉ định bị áp dụng thuế đối ứng, thay vì so sánh các mức thuế quan giữa các quốc gia bị chỉ định và những mức thuế mà Hoa Kỳ áp dụng đối với quốc gia đó. Cách tiếp cận này rõ ràng gây bất lợi cho Việt Nam. Trong năm 2024, Việt Nam đã đạt được thặng dư thương mại gần 104 tỷ USD với Hoa Kỳ.
Chưa có quốc gia nào bị áp dụng thuế đối ứng đạt được thỏa thuận.
Nhà Trắng cho biết rằng 70 quốc gia đã chủ động liên hệ để cố gắng đạt được thỏa thuận nhằm hạ thấp mức thuế đối ứng. Tính đến thời điểm báo cáo này được hoàn thiện, không quốc gia nào trong số 70 quốc gia đó đạt được thỏa thuận (Nhật Bản đang trong tiến trình đàm phán).
Mô hình của chúng tôi chỉ dự báo các hiệu ứng bậc nhất của hai kịch bản.
Chúng tôi xây dựng mô hình dựa trên các giả định sau:
Ước tính độ co dãn áp dụng cho các dòng sản phẩm xuất khẩu/nhập khẩu được lấy từ nhiều tổ chức nghiên cứu khác nhau, bao gồm USDA, Cục Phân tích Kinh tế, Journal of Economic Perspectives và American Economic Review
Mức tăng trưởng nội sinh của xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ được giả định là 1% do các ước tính chung chưa dự báo Mỹ rơi vào suy thoái kinh tế. Chúng tôi cộng thêm 0,5 điểm phần trăm để giả định rằng một số sản xuất của Trung Quốc được chuyển sang Việt Nam nhằm tránh các mức thuế phạt hiện đang áp dụng đối với hàng hóa Trung Quốc
Xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường ngoài Mỹ được giả định tăng trưởng 2% so với năm 2024 để phản ánh sự gia tăng cạnh tranh (so với 11% đã đạt được trong năm 2024)
Những phát hiện của chúng tôi là:
Tích cực: giá trị xuất khẩu sang Hoa Kỳ sẽ đạt hơn 112 tỷ USD (-6.2% YoY) với tổng giá thị xuất khẩu bao gồm các quốc gia khác đạt hơn 404 tỷ USD (-0.4% YoY).
Tiêu cực: giá trị xuất khẩu sang Hoa kỳ đạt chỉ gần 98 tỷ USD (-18% YoY) với tổng giá trị xuất khẩu bao gồm các quốc gia khác chỉ đạt hơn 390 tỷ USD (-3.9% YoY).
So với mục tiêu ban đầu để đạt được mức tăng trưởng GDP 8% thì mục tiêu xuất khẩu là hơn 450 tỷ USD (+12% YoY) để có thể đạt mức thăng dư 30 tỷ USD đang là một thách thức rất lớn.
Vì vậy, chúng tôi cũng sẽ tiếp tục đưa ra một số giả định để có thể đưa ra 2 kịch bản tăng tưởng GDP được tính theo phương pháp chi tiêu:
Tích cực: tổng giá trị nhập khẩu kỳ vọng đạt 390 tỷ USD (+2.5% YoY) dựa trên giả định chúng ta vẫn tiếp tục nhập khẩu đầu vào phục vụ sản xuất – xuất khẩu sang các thị trường khác, từ đó đạt mức thặng dư thương mại 13 tỷ USD. Đầu tư tư nhân sẽ đạt mức tăng trưởng 9% YoY (2024: +13.% YoY), đầu tư nhà nước đạt mức tăng trưởng 10% YoY (2024: +16.8% YoY) và tiêu dùng hộ cư dân đạt mức tăng trưởng 9% YoY (2024: +14% YoY). Với sai số giả định không đổi. Từ đó tăng trưởng GDP mà chúng tôi ước tinh cho kịch bản này sẽ đạt mức 6,6%.
Tiêu cực: tổng giá trị nhập khẩu kỳ vọng đạt 378 tỷ USD (-0.8% YoY) dựa trên giả định do xuất khẩu suy giảm năng dẫn đến suy giảm nhập khẩu, từ đó đạt mức thặng dư thương mại là 12 tỷ USD. Đầu tư tư nhân sẽ chỉ đạt mức tăng trưởng 7% YoY, đầu tư nhà nước đạt mức tăng trưởng 13% YoY (cao hơn kịch bản tích cực với giả định Chính Phủ dùng nhiều biện pháp hỗ trợ nền kinh tế) và tiêu dùng hộ cư dân đạt mức tăng trưởng 8%. Với sai số giả định không đổi. Từ đó tăng trưởng GDP mà chúng tôi ước tinh cho kịch bản này sẽ đạt mức 5,4%.



25 tháng 3, 2025

Báo Cáo Trái Phiếu Tháng 02/2025

Trái phiếu Chính Phủ thị trường sơ cấp:
Tháng 2/2025, với 16 phiên đấu thầu và tổng giá trị gọi thầu 50,5 nghìn tỷ đồng, tỷ lệ trúng thầu tăng lên 57.7%, trong đó trái phiếu kỳ hạn 10 năm vẫn chiếm phần lớn với hơn 28 nghìn tỷ đồng (96.3%), kèm theo các phiên đấu thầu trái phiếu kỳ hạn 15 và 30 năm có giá trị trúng thầu lần lượt là 300 tỷ đồng và 769 tỷ đồng. Tổng giá trị TPCP phát hành thông qua đấu thầu trong 2 tháng đầu năm đạt hơn 45 nghìn tỷ đồng, tương đương hơn 9% kế hoạch cả năm (500 nghìn tỷ đồng).
Mức lãi suất trung bình của trái phiếu trúng thầu tiếp tục giữ đà tăng so với tháng trước. Trong tháng 2/2025 giá trị đấu thầu tăng đồng thời tỷ lệ trúng thầu cũng tăng nhẹ so với tháng trước đưa giá trị trúng thầu tăng mạnh. Bên cạnh đó, mức lãi suất tiếp tục có xu hướng tăng nhẹ. Qua đây ta có thể thấy rằng, Chính Phủ đang tích cực phát hành lượng lớn trái phiếu nhằm mục đích huy động ngân sách phục vụ phát triển đầu tư công (gia tăng giá trị đấu thầu đồng thời nâng lãi suất đấu thầu). Dù vậy khả năng hấp thụ thị trường vẫn chưa thể đáp ứng kịp thời thông qua việc tỷ lệ trúng thầu vẫn khá thấp so với giai đoạn năm ngoái từ đó dẫn đến mặt bằng lãi suất đấu thầu và trúng thầu tiếp tục có xu hướng tăng nhẹ.
Trái phiếu Chính Phủ thị trường thứ cấp tiếp tục sôi động:
Trong tháng 02/2025, giá trị giao dịch cải thiện ghi nhận mức tăng trưởng so với tháng trước và cùng kỳ đạt mức cao so với mặt bằng chung trong năm 2024. Lợi suất kỳ hạn 5-10 năm tăng nhẹ nhưng kỳ hạn 10-15 năm vẫn ổn định.
Trái phiếu doanh nghiệp sơ cấp :
Thị trường trái phiếu bắt đầu với các đợt phát hành công chúng, không có các lô riêng lẻ. Cho đến ngày 31/01/2025, tháng 1 đã có 4 đợt phát hành với tổng giá trị khoảng 5,5 nghìn tỷ đồng. Không ghi nhận bất kỳ lô trái phiếu phát hành mới trong tháng 2/2025. Dự kiến, trong thời gian tới, với các chính sách tăng trưởng và sự hỗ trợ tích cực từ nhà nước, thị trường trái phiếu bất động sản sẽ phục hồi. Mặt bằng lãi suất coupon hiện vẫn duy trì ở mức khá ổn định.
Giá trị mua lại trái phiếu trước hạn từ các tổ chức tín dụng tăng đột biến trở lại trong tháng cuối năm 2024 và ảm đạm trong 2 tháng đầu năm 2025 – Áp lực từ việc đáo hạn trái phiếu trong lĩnh vực bất động sản vẫn hiện hữu.
Trong năm 2024, do nhu cầu thanh khoản, cấu trúc linh hoạt và đặc thù rủi ro, các tổ chức tín dụng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị mua lại trước hạn trái phiếu trên toàn thị trường. Trong khoảng cuối quý 3 và đầu quý 4, giá trị mua lại trước hạn có xu hướng giảm dần, nhưng lại tăng đột biến vào cuối năm, cho thấy các tổ chức tín dụng chủ động điều chỉnh lại các khoản vốn trung và dài hạn trong danh mục đầu tư. Đáng chú ý, lĩnh vực bất động sản ghi nhận giá trị mua lại trước hạn lớn vào cuối năm 2024 và đầu năm 2025 với tổng giá trị trên 13 nghìn tỷ đồng, trong đó gần 50% thuộc về Novaland với tổng giá trị vượt 6,6 nghìn tỷ đồng, đáo hạn vào cuối quý 2 và đầu quý 3 cùng mức lãi suất coupon 11%.
Dù năm 2024 đã có một số động thái mua lại trước hạn từ các doanh nghiệp, nhưng giá trị trái phiếu đáo hạn của ngành bất động sản vẫn được duy trì cho năm 2025 và 2026.










25 tháng 3, 2025

Cập nhật Vĩ Mô Việt Nam 02/2025

Trước bối cảnh toàn cầu phức tạp, mỗi khu vực đều cần chính sách kinh tế linh hoạt và kịp thời để vượt qua thách thức và duy trì đà phục hồi bền vững.
Mỹ: Ngành sản xuất phục hồi mạnh với PMI tăng, nhưng dịch vụ chậm lại; thị trường lao động vẫn vững chắc, Fed giữ lãi suất trong khi GDP dự báo tăng chậm và lạm phát cao hơn mục tiêu.
Trung Quốc: Dịch vụ và sản xuất đều cho thấy dấu hiệu phục hồi ổn định nhờ các gói kích thích kinh tế linh hoạt của Beijing, tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững.
Châu Âu: Kinh tế chịu áp lực đa chiều với xây dựng giảm mạnh, sản xuất ổn định nhẹ và dịch vụ tăng chậm, dự báo tăng trưởng chỉ khoảng 1–1,5% trong năm.
Nhật Bản: Dịch vụ tăng mạnh nhưng niềm tin doanh nghiệp giảm, sản xuất ổn định nhẹ; tiêu dùng nội địa giúp GDP tăng khoảng 1,2% và lạm phát duy trì khoảng 2,0%.
Mặc dù vẫn tồn tại áp lực tỷ giá, nhưng nền kinh tế Việt Nam được hỗ trợ bởi sự phục hồi trong thương mại, du lịch, bán lẻ và dòng vốn FDI ổn định, tạo nên triển vọng duy trì ổn định và tăng trưởng bền vững trong bối cảnh hiện nay.
Lạm phát: với các biện pháp kiểm soát chặt chẽ của chính sách tiền tệ và sự ổn định của nguồn cung, chỉ số CPI được duy trì ở mức kiểm soát, cho thấy xu hướng ổn định tương đối trong bối cảnh áp lực lạm phát còn tồn tại. Trong tháng 2 thì lạm phát có phần tăng nhẹ hơn, tăng 0,34% so với tháng trước và 2,91% so với cùng kỳ năm trước, với mức tăng bình quân 3,27% trong 02 tháng đầu năm.
Thương mại: Hoạt động thương mại quốc tế ghi nhận sự phục hồi nhẹ, dù vẫn phải đối mặt với những bất ổn từ môi trường toàn cầu. Các chính sách kích thích xuất khẩu và cải thiện chuỗi cung ứng đang góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng bền vững của xuất nhập khẩu. Trong T02/2025, tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu hàng hóa đạt khoảng 63,8 tỷ USD, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 32,6% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 2T/2025, kim ngạch đạt tới khoảng 127 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ, với xuất khẩu tăng 8,4% và nhập khẩu tăng 15,9%, tạo cán cân thương mại xuất siêu khoảng 1,5 tỷ USD
Du lịch và bán lẻ: Ngành du lịch và bán lẻ tiếp tục phục hồi tích cực nhờ vào nhu cầu tiêu dùng nội địa được thúc đẩy sau kỳ nghỉ lễ và Tết. Các chương trình kích thích tiêu dùng cùng với cải thiện chất lượng dịch vụ đã tạo đà tăng trưởng cho cả hai lĩnh vực, đóng góp quan trọng vào việc kích hoạt nền kinh tế trong thời kỳ khó khăn. Ngành du lịch ghi nhận mức tăng khoảng 4,2% về lượt khách nội địa, trong khi bán lẻ tăng trưởng khoảng 2,8% so với tháng trước, được thúc đẩy bởi nhu cầu tiêu dùng sau Tết và các chương trình kích thích tiêu dùng nội địa.
FDI: Dòng vốn FDI duy trì ở mức ổn định nhờ môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện thông qua các chính sách ưu đãi và sự ổn định của các chỉ số kinh tế vĩ mô. Nhà đầu tư nước ngoài vẫn đánh giá cao tiềm năng phát triển của thị trường nội địa, mặc dù còn một số rủi ro từ biến động kinh tế toàn cầu cần được theo dõi chặt chẽ. Dòng vốn FDI đạt khoảng 8,5 tỷ USD trong tháng 2/2025, tăng 12% so với tháng trước, cho thấy niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường đầu tư và tiềm năng tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.
Tỷ giá: áp lực tỷ giá vẫn còn tồn động, tuy nhiên kỳ vọng vào sự khả quan từ cán cân thương mại và dòng vốn FDI sẽ hỗ trợ tỷ giá được kiểm soát ở mức độ phù hợp trong bối cảnh hiện nay.

bottom of page