top of page
MicrosoftTeams-image (38).png

Phân tích ngành/lĩnh vực

Báo cáo phân tích ngành với các thông tin cập nhật lĩnh vực và khuyến nghị đầu tư

29 thg 9, 2025

Industrial Property_Sector Update

1H25 Sector performance
- Net industrial land absorption in Q2 dropped sharply to the lowest level in recent years due to uncertainties over US tariffs. However, rental prices in Q2 were still at the same level as Q1 and posted YoY growth, supported by high occupancy rates across industrial parks and improved infrastructure.
Although land handover area generally declined YoY, sector revenue in Q2 only slipped 4.5% QoQ and still surged 21.6% YoY. Meanwhile, sector net profit jumped 26.7% QoQ and 85.1% YoY, driven by contributions from other business segments such as residential property, rubber, and providing electricity and water.

2H25-2026 Outlook
- We expect net industrial land absorption to improve compared to 2Q25 but grow at a slower pace than in previous periods, as investor sentiment remains cautious under tariff pressures. We also believe a shift of manufacturing facilities out of Vietnam is unlikely, given the insignificant tariff gap between Vietnam and other regional countries. In addition, industrial park developers have been diversifying their income streams through residential projects, infrastructure services, ...

29 thg 9, 2025

Báo cáo cập nhật ngành Bất động sản Khu công nghiệp

Diễn biến ngành trong Q2/2025
- Diện tích đất KCN hấp thụ ròng trong Q2 giảm mạnh về mức thấp nhất trong những năm gần đây do những bất định liên quan đến thuế đối ứng. Tuy nhiên giá thuê trong Q2 vẫn được quy trì ở mức ngang Q1 và tăng trưởng svck nhờ tỷ lệ lấp đầy các KCN nhìn chung vẫn ở mức cao và hạ tầng cải thiện.
- Mặc dù diện tích đất bàn giao của các công ty nhìn chung giảm svck, doanh thu toàn ngành trong Q2 chỉ giảm nhẹ 4,5% sv quý trước và vẫn tăng mạnh 21,6 svck. Cùng với đó LN ròng toàn ngành tăng mạnh 26,7% sv quý trước và 85,1% svck nhờ tăng trưởng từ các mảng kinh doanh khác như BĐS dân cư, cao su và cung cấp điện, nước.

Triển vọng ngành trong nửa cuối năm 2025 và 2026
- Diện tích đất KCN hấp thụ ròng sẽ cài thiện so với Q2/25 nhưng tăng trưởng chậm lại so với giai đoạn trước do tâm lý thận trọng của các nhà đầu tư dưới áp lực của vấn đề thuế quan. Chúng tôi cũng cho rằng xu hướng dịch chuyển nhà máy ra khỏi Việt Nam sẽ ít khẳ năng xảy ra khi mức chênh lệch thuế quan giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực không đáng kể. Bên cạnh đó các doanh nghiệp bất động sản công nghiệp đã có xu hướng đa dạng hóa nguồn thu nhập từ bđs dân cư, dịch vụ hạ tầng,...

26 thg 9, 2025

Residential Real Estate_Sector Update

- The Government is accelerating legal resolution and improving project approval procedures to boost supply, while continuing to refine the regulatory framework to ensure policies are aligned with market dynamics once implemented.
- Looking forward, new supply in Hanoi is expected to remain elevated, while HCMC will gain momentum from recently merged areas.
- With public investment being ramped up as a key driver of economic growth, real estate markets in areas with near-complete infrastructure are projected to become more active going forward.
- We expect the real estate corporate bond market to regain growth momentum after 2027, supported by lower funding costs and broader opportunities for funding diversification.
- Recommendation: We recommend BUY on KDH (VND46,400; +34.5%), NLG (VND48,000; +17.1%), PDR (VND28,300; +15.3%), CTD (VND98,300; +19.9%), and HOLD on VHM (VND109,300; +10.4%) and DXG (VND24,600; +8.1%).

26 thg 9, 2025

Báo cáo cập nhật ngành Bất động sản Dân cư

- Nhà nước đẩy mạnh tháo gỡ pháp lý và và cải thiện quy trình phê duyệt dự án giúp tăng nguồn cung, trong khi tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm đảm bảo chính sách phù hợp tình hình thị trường khi đi vào áp dụng.
- Trong thời gian tới, nguồn cung mới tại Hà Nội dự kiến duy trì ở mức cao, trong khi TP.HCM (mới) sẽ được tiếp động lực từ các khu vực mới sáp nhập.
- Trong bối cảnh Nhà nước đẩy mạnh đầu tư công như một động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thị trường BĐS tại các khu vực có hạ tầng gần hoàn thiện được dự báo sẽ sôi động hơn trong thời gian tới.
- Chúng tôi kỳ vọng thị trường TPDN trong ngành BĐS sẽ lấy lại đà tăng trưởng từ sau năm 2027, với chi phí huy động giảm và cơ hội đa dạng hóa nguồn vốn được mở rộng cho DN.
- Cơ hội đầu tư: Chúng tôi khuyến nghị MUA với các mã cổ phiếu KDH (VND46.400; +34,5%), NLG (VND48.000; +17,1%), PDR (VND28.300; +15,3%), CTD (VND98.300; +19,9%) và NẮM GIỮ đối với VHM (VND109.300; +10,4%), DXG (VND24.600, +8,1%).

Ngành Bất động sản Dân cư - Tái khởi động trong môi trường thuận lợi

View more

5 thg 9, 2025

Quick Update on Ports&Logistics Industry – 2Q2025

Spot freight rates remained flat in 1H25 and are still on a long-term downward trend.In contrast, time-charter rates have tripled compared to early 2024 and continue to stay elevated.Meanwhile, container throughput across Vietnam’s port system grew +9.0% YoY in 7M2025, driven by the front-loading effect.
In summary, industry-wide PBT grew 14.2% YoY to VND2,146bn in 2Q2025.
Many institutions have continuously revised down their forecasts for average freight rates in 2025 and 2026, citing sluggish demand growth while fleet capacity continues to expand. In addition, cargo throughput at Vietnam’s port system is expected to decelerate following a period of “front-loading” activity.

29 thg 8, 2025

Báo cáo cập nhật nhanh ngành Cảng&Vận tải biển Q2/2025

Diễn biến ngành
Giá cước vận tải biển giao ngay gần như đi ngang trong 6 tháng đầu năm 2025. Hiện tại, giá cước vận chuyển container toàn cầu đang thấp hơn 62% so với đỉnh vào tháng 7/2024 nhưng vẫn cao hơn hơn gấp đôi so với mức trung bình trước Covid-19.
Ngược lại, chúng tôi nhận thấy giá cho thuê tàu đã tăng gấp 3 lần so với đầu năm 2024 và vẫn ở mức cao.
Trong 7 tháng đầu năm, lượng hàng container qua hệ thống cảng Việt Nam tăng trưởng 9.0% YoY nhờ hiện tượng dồn hàng đi Mỹ trước lo ngại thuế đối ứng.
Theo TCTCK, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam tăng trưởng 16% YoY đạt 515 triệu USD trong 6 tháng đầu năm 2024. Trong đó, Hoa Kỳ là đối tác xuất khẩu lớn nhất chiếm 32% giá trị kim ngạch xuất khẩu. Trung Quốc là đối tác nhập khẩu lớn nhất chiếm 40% tổng kim ngạch nhập khẩu.
LNTT toàn ngành tăng trưởng 14.2% YoY lên 2,146 tỷ đồng trong Q2/2025.

Triển vọng năm 2025-26
Trong nửa cuối 2025 và năm 2026, chúng tôi cho rằng giá cước vận tải sẽ có xu hướng giảm do (1) áp lực từ dư cung công suất đội tàu toàn cầu vượt nhu cầu thương mại và (2) tình hình Biển Đỏ dần ổn định giúp rút ngắn các tuyến dịch vụ.
Chúng tôi nhận thấy xu hướng gia tăng đặt hàng của các tàu lớn khi các tàu có tải trọng lớn hơn 8,000 TEU chiếm 80% tổng công suất đặt hàng mới trong 2024-25. Điều này có thể dẫn đến nhu cầu trung chuyển hàng hóa bằng tàu nhỏ tăng lên giúp cho giá cước cho thuê tàu định hạn tiếp tục neo ở mức cao. Chúng tôi đánh giá xu hướng này có thể kéo dài, dẫn tới giá cho thuê tàu duy trì ở mức cao trong nửa cuối năm 2025 và năm 2026.
Mặc dù lượng hàng container qua hệ thống cảng Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng tích cực so với cùng kỳ trong 6 tháng đầu năm, chúng tôi cho rằng xu hướng này sẽ chậm lại trong nửa cuối năm do Hoa Kỳ cần thời gian để tiêu thụ hàng tồn kho sau một khoảng thời gian 'dồn hàng trước'.

11 thg 7, 2025

VPBankS_Forecast Q2.2025 & Cả năm

Dự phóng KQKD Q2/2025

View more

16 thg 6, 2025

Báo cáo nhanh ngành Dầu khí

Ngay sau khi vụ tấn công phủ đầu của Israel vào Iran ngày 13/6, giá dầu thô tương lai đã tăng vọt, dầu WTI đã tăng 8.26 USD, tương đương 12.36%, lên mức 76.30 USD/thùng, dầu Brent cũng tăng vọt 8.57 USD, tương đương 12.36%, đạt 77.93 USD/thùng. Kết thúc tuần, giá dầu WTI đã tăng 13,01% lên 73 usd/thùng, trong khi dầu Brent tăng 11,67% lên 74,2 usd/thùng, đây là mức cao nhất trong vòng 4 tháng qua.
Giá dầu khả năng sẽ tăng tiếp trong tuần do lo ngại xung đột tiếp tục leo tháng và Iran đe dọa sẽ đóng của eo biển Hormuz - là tuyến vận chuyển chính xử lý khoảng 20% hoạt động buôn bán dầu. Nhiều tổ chức cảnh báo, giá dầu có thể tăng vọt lên 100 usd/thùng, thậm chí là 120-150 usd/thùng nếu Iran thực hiện phong tỏa hoặc đóng cửa bằng các hoạt động quân sự.
Việc giá dầu đang tăng vọt trở lại mức cao nhất trong 4 tháng qua do xung đột địa chính trị tại khu vực Trung đông, nếu kéo dài, sẽ cơ bản ảnh hưởng tích cực đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành dầu khí, đặc biệt là nhóm hạ nguồn. Theo đó, các cổ phiếu của nhóm doanh nghiệp này khả năng sẽ còn tiếp tục tăng và giữ ở mức giá tốt trong thời gian tới. Chúng tôi đặc biệt ưa thích nhóm cổ phiếu PVD, PVS, BSR và PLX.

4 thg 6, 2025

Báo cáo cập nhật ngành Dầu khí Q1.2025

Giá dầu trong Q1.2025 giảm 7,1%-8,4% so với cùng kỳ 2024 tác động tiêu cực đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành dầu khí, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp hạ nguồn.
Khai thác dầu khí trong Q1.2025 mặc dù đạt và vượt kế hoạch, nhưng vẫn bị suy giảm so với cùng kỳ. Sản lượng dầu khai thác đạt 2,08 triệu tấn (-5,8% yoy), khí tự nhiên khai thác đạt 1,47 tỷ m3 (-14,2% yoy).
Trong Q1.2025, Doanh thu các doanh nghiệp dầu khí niêm yết đạt gần 193 nghìn tỷ đồng, tăng nhẹ 1,7%. Lợi nhuận trước thuế đạt 5,7 nghìn tỷ đồng, giảm 25,3% so với cùng kỳ 2024. Mặc dù vậy mức giảm đã chậm lại so với Q3-Q4/2024.
Giá dầu sang đầu quý 2 đã giảm về mức thấp nhất trong 4 năm qua và tiếp tục được dự báo chịu sức ép giảm trong những quý tiếp theo của năm và 2026. Mặc dù vậy, một số doanh nghiệp thượng nguồn với những câu chuyện riêng của ngành dầu khí trong nước (các dự án đầu tư lớn được thực hiện, mở rộng lĩnh vực năng lượng tái tạo…) được đánh giá có triển vọng lạc quan và cơ hội đầu tư hấp dẫn khi giá cổ phiếu điều chỉnh giảm sâu.

3 thg 6, 2025

Báo cáo cập nhật ngành Điện Q1.2025

Tổng sản lượng điện Q1.2025 đạt 72,2 tỷ kwh, tăng 4,6% yoy. Trong đó, Thủy điện: đạt 13,8 tỷ kwh, tăng 30% yoy, chiếm 19,1% tổng sản lượng (TSL); Điện than: đạt 40,8 tỷ kwh, tăng nhẹ 2,0% yoy, đạt 56,5% TSL; Điện khí dầu: đạt 4,6 tỷ kwh, giảm mạnh 24,1%, chiếm 6,4% TSL. Sản lượng giảm do nguồn khí suy giảm và nhà máy điện khí Phú Mỹ 3 và Phú Mỹ 2.2 (1.500MW) dừng để chuyển giao lại cho chính phủ Việt Nam; Điện NLTT: đạt 11,5 tỷ kwh, tăng 0,52% yoy, chiếm 16,0% TSL.

Kết quả kinh doanh toàn ngành hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ, Doanh thu tăng 11% và Lợi nhuận trước thuế tăng 109%. Nhóm doanh nghiệp thủy điện có doanh thu tăng cao nhất với 36%, điện năng lượng tái tạo tăng 31% và Nhiệt điện tăng 13%. Với chỉ tiêu Lợi nhuận trước thuế, nhóm Nhiệt điện tăng mạnh 364% do một số doanh nghiệp chuyển lỗ thành lãi (PGV, NT2), nhóm điện tái tạo tăng mạnh 192%, trong khi nhóm thủy điện tăng 129%.

15 thg 5, 2025

Banking

* SOCBs’ “other income” line (aka recovery of written off debt) signal strength in the property market: among the three listed SOCBs, this item in 1Q25 was up 51% YoY and up two bps YoY as a percentage of the loan book.
* NIM story in 1Q25 was dismal: only decent NIM performance came from MBB and TPB, and in the not-so-bad category were HDB and VPB.
* No story with NPL movement in 1Q25: NPL rate across our 11 coverage stocks moved up 20 bps QoQ but Group 2 went sideways QoQ. NPLs exhibited the same 20 bps QoQ rise in 1Q24.

15 thg 5, 2025

Ngành Ngân hàng

* Khoản mục “thu nhập khác” của các ngân hàng quốc doanh (SOCBs) – gồm các khoản thu hồi nợ đã xóa sổ – cho thấy tín hiệu tích cực từ thị trường bất động sản: trong số ba ngân hàng quốc doanh niêm yết, khoản mục này trong Quý I/2025 đã tăng 51% svck, và tăng 2 điểm cơ bản svck khi so với dư nợ cho vay
* Biên lãi ròng (NIM) trong Quý I/2025 khá ảm đạm: chỉ có MBB và TPB ghi nhận mức NIM tương đối ổn; và HDB và VPB ghi nhận mức NIM không quá tệ.
* Không có câu chuyện nổi bật với nợ xấu (NPL) trong Quý I/2025: tỷ lệ nợ xấu trung bình của 11 cổ phiếu ngân hàng trong phạm vi phân tích tăng 20 điểm cơ bản so với quý trước, trong khi nợ Nhóm 2 đi ngang. Tỷ lệ nợ xấu trong Quý I/2024 cũng ghi nhận mức tăng tương tự – 20 điểm cơ bản so với quý trước.

13 thg 5, 2025

Báo cáo KQKD Ngành Chứng khoán Q1.2025

Tổng LNTT Q1/2025 toàn ngành (Tổng 30 CTCK niêm yết & chưa niêm yết đầu ngành) tăng 0.4% Yoy nhưng phân hóa rất mạnh. Nhóm CTCK tăng trưởng trên 15% bao gồm: Kafi, MBS, PHS, Vietcap, VIX, VPS, VPBankS.

View more

18 thg 4, 2025

Ngành điện_Cập nhật Quy hoạch 8 điều chỉnh

Ngày 15/4/2025, Chính phủ đã Phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch điện 8 tại Quyết định số 768/QĐ-TTg
Quy hoạch điều chỉnh đặt mục tiêu bảo đảm cung ứng đủ điện cho yêu cầu tăng trưởng GDP bình quân 10% mỗi năm giai đoạn 2026-2030, và khoảng 7,5% thời kỳ 2031-2050. Do đó, sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu vào 2030 dự kiến đạt 560,4- 624,6 tỷ kWh và lên đến 1.360,1-1.511,1 tỷ kWh vào 2050.
Trọng tâm lớn của Quy hoạch điều chỉnh là thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, với mục tiêu chiếm tỷ lệ 28-36% vào năm 2030, và 74-75% năm 2050 (không bao gồm thủy điện).

17 thg 4, 2025

Báo cáo phân tích dự báo Kỳ review ETF theo chỉ số VN30 trong T4.2025

Ngày 2/4/2025 Sở Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh (HOSE) công bố thay đổi ngày hiệu lực áp dụng của chỉ số đợt xem xét định kỳ theo đó ngày hiệu lực áp dụng cập nhật tỷ lệ free-float, khối lượng lưu hành và giới hạn tỷ trọng vốn hóa của Bộ chỉ số HOSE-Index sẽ chuyển ngày hiệu lực từ ngày 05/05/2025 sang ngày 28/04/2025

Với rổ chỉ số VN30, danh mục các cổ phiếu không có thay đổi trong kỳ review này. Tuy nhiên đợt cơ cấu này là đợt đầu tiên áp dụng quy tắc bộ chỉ số HOSE Index phiên bản 4.0. Một trong những điểm đáng chú ý nhất là tỷ trọng cố phiếu trong VN30 sẽ có thay đổi đáng khi bổ sung điều kiện “Nhóm cổ phiếu cùng ngành: tỷ trọng vốn hóa tính toán là 40%.

Hiện tại có 4 quỹ ETF đang tham chiếu chỉ số VN30 Index với tổng quy mô tài sản ước tính khoảng hơn 7,944 tỷ Việt Nam đồng. Trong kỳ cơ cấu lần này, chúng tôi dự báo các quỹ ETF phần lớn sẽ bán ròng các cổ phiếu nhóm tài chính (ngân hàng, chúng khoán) trong khi đó mua ròng lại các nhóm ngành khác. Tuy nhiên tác động sẽ không quá lớn do rất ít cổ phiếu có mức độ SLCP giao dịch/TB giao dịch 1 tháng ở mức trên 50%.

14 thg 4, 2025

Ngành Ngân hàng

Báo cáo Tổng quan Ngành Ngân hàng Việt Nam cung cấp phân tích chuyên sâu về 11 ngân hàng chủ chốt cùng những xu hướng quan trọng tác động đến ngành trong thời gian tới.

2 thg 4, 2025

VPBankS_Forecast Q1.2025 & Cả năm

26 thg 3, 2025

Cập nhật ngành Cảng&Vận tải biển 2024

Giá cước vận tải container biến động mạnh từ đầu năm 2024 do căng thẳng địa chính trị ở Biển Đỏ khiến các hãng tàu phải thay đổi quãng đường xa hơn bằng cách đi vòng qua mũi Hảo Vọng. Tính đến T2/25, giá cước container 40’ đã cho thấy dấu hiệu hạ nhiệt xuống mức 2,629 USD/FEU, giảm 58% so với mức đỉnh T7/24 nhờ các hãng tàu đã dần thích nghi với lịch trình mới. Tuy nhiên giá cước hiện tại vẫn cao hơn 120% so với giai đoạn trước dịch Covid-19.
Trong năm 2024, lượng hàng container thông qua hệ thống cảng Việt Nam tăng trưởng 21% svck đạt gần 30 Teu. Theo dữ liệu sơ bộ từ TCTK, tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng 15% svck đạt 785 tỷ USD trong năm 2024. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 120 tỷ USD xuất khẩu trong 2024, chiếm 29,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất, với 144 tỷ USD nhập khẩu, chiếm 37,9% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam trong 2024.
Nhìn chung, KQKD đã phản ánh xu hướng tăng trưởng chung của ngành trong Q4/24. Doanh thu và lợi nhuận của ngành Cảng&Vận tải biển đều tăng trưởng svck từ mức nền thấp trong năm 2023. Đối với ngành dịch vụ cảng, biên LN gộp đi ngang ổn định ở mức 38.3% (+0.4 điểm % sv quý trước, -0.1 điểm % svck) trong Q4/24. Đối với ngành vận tải biển, biên LN gộp tăng trưởng mạnh lên 14% (+1.3 điểm % svck, +2.6 điểm % sv quý trước) trong Q4/24 nhờ giá cước vận tải và cho thuê tàu định hạn cao hơn svck.
Chúng tôi kỳ vọng doanh thu ngành tăng 12.0% svck đạt 5,878 tỷ đồng và LNTT tăng 7.0% svck đạt 1,646 tỷ đồng trong Q1/2025. Tính cả năm 2025, doanh thu ngành tăng 9.4% svck đạt 27,687 tỷ đồng, tương ứng với LNTT tăng trưởng 5.6% svck đạt 7,243 tỷ đồng.

19 thg 3, 2025

Báo cáo ETF

Xtrackers FTSE Vietnam Swap UCITS etf tái cơ cấu danh mục hạn chót vào ngày 21/3/2025:

* Chỉ số FTSE VietNam Index được review định kỳ theo quý, công bố 07/03/2025 và có hiệu lực từ 24/03/2025. Theo đó Xtrackers FTSE Vietnam Swap UCITS etf sẽ tái cơ cấu danh mục hạn chót vào ngày 21/03/2025.
* Ở kỳ đánh giá này, FTSE Vietnam Index thêm mới SIP và không loại mã nào. Sau kỳ cơ cấu, chỉ số sẽ có 32 cổ phiếu thành phần
* Theo số liệu từ Bloomberg, FTSE VietNam Swap UCITS ETF là quỹ ETF có giá trị tài sản ròng xếp thứ 4 từ trên xuống tại thị trường Việt Nam với quy mô 266.59 triệu USD
* Trong kỳ cơ cấu lần này, chúng tôi ước tính FTSE VieNam Swap UCITS ETF có khả năng sẽ mua thêm khoảng hơn 7 trăm nghìn cổ phiếu SIP và giảm tỷ trọng của các cổ phiếu khác.

VanEck Vietnam ETF sẽ tái cơ cấu danh mục hạn chót vào ngày 21/3/2025

* VanEck VietNam ETF là quỹ etf có cơ cấu danh mục dựa trên chỉ số MVIS Vietnam Index. Chỉ số này cũng có lịch review vào cuối mỗi quý và hạn chót để VanEck VietNam ETF cơ cấu lại danh mục theo kỳ review của chỉ số MVIS VietNam Index là ngày 21/03/2025. Sau khi review, chỉ số sẽ có 46 cổ phiếu thành phần
VanEck VietNam ETF có quy mô tổng tài sản 417.82 triệu USD vẫn đang đứng thứ 3 về quy mô chỉ sau Fubon FTSE Vietnam ETF, DCVFMVN Diamond ETF.
* Trong kỳ cơ cấu lần này, chúng tôi dự báo các mã thành phần Vaneck VietNam ETF có mua bán ròng/thanh khoản bình quân tháng của các cổ phiếu không quá lớn và chỉ mua ròng mạnh mã NAB do mới được thêm vào chỉ số.

Xu hướng dòng vốn ETFs trên thị trường Việt Nam: Tại Việt Nam, lũy kế từ đầu năm 2025 đến nay các quỹ ETF đã bị rút ròng khoảng 113 triệu USD. Các quỹ chịu ảnh hưởng rút ròng lớn nhất bao gồm Fubon FTSE Vietnam ETF (-37.3 Triệu USD); VanEck Vietnam ETF (-31.9 triệu USD) và DCVFMVN 30 ETF (-25.7 triệu USD)

18 thg 3, 2025

Ngành thép

Ngày 14/03, EC đã thông báo kết luận sơ bộ đối với vụ việc điều tra CBPG được khởi xướng từ ngày 08/08/2024 đối với sản phẩm HRC nhập khẩu từ các quốc gia Ấn Độ, Nhật Bản, Việt Nam và Ai Cập. Theo đó, EC đã công bố không phát hiện hành vi bán phá giá của HRC Ấn Độ, trong khi sẽ áp thuế CBPG tạm thời đối với 3 quốc gia còn lại từ 6,9%-33,0% kể từ ngày 07/04 tới đây. Đối với Việt Nam, Formosa Hà Tĩnh và các doanh nghiệp khác sẽ phải chịu mức thuế 12,1% khi xuất khẩu HRC vào EU trong khi Hòa Phát sẽ không bị áp thuế. Mức thuế chính thức dự kiến sẽ được ban hành vào ngày 07/10/2025.
Trong trường hợp mức thuế chính thức không thay đổi so với mức thuế sơ bộ hiện tại, chúng tôi nhận thấy EU sẽ tiếp tục là thị trường xuất khẩu chính của HRC Việt Nam xét tới việc chênh lệch giá bán HRC tại 2 thị trường hiện đang ở trên mức 30%. Chúng tôi lưu ý rằng trong cả năm 2024, Việt Nam xuất khẩu 727.000 tấn HRC sang EU, giảm 37% so với 2023 nhưng xếp thứ 6 về sản lượng xuất khẩu khi so với các nước khác. Chúng tôi cũng cho rằng Hòa Phát sẽ dành thêm được thị phần xuất khẩu HRC do không phải chịu thuế CBPG khi xuất khẩu vào EU trong trường hợp không thay đổi kết luận sơ bộ.
Nhằm đáp ứng yêu cầu bảo hộ của Hiệp hội thép châu Âu, EC đã khởi xướng đánh giá và chỉnh sửa mức hạn ngạch bảo hộ đối với các sản phẩm thép từ tháng 12/2024. Mới đây, EC đã công bố đề xuất đối với hạn ngạch bảo hộ cho các mặt hàng thép nhập khẩu. Đề xuất này sẽ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/04/2025.
Theo đó, đối với sản phẩm HRC, sản lượng HRC từ “các quốc gia khác” được miễn thuế trong hạn ngạch quý 2/2025 được điều chỉnh về mức 856.769 tấn/quý, giảm 7,4% so với mức hạn ngạch trong quý 1 và giảm 8,4% so với mức hạn ngạch quý 2 được công bố vào kỳ đánh giá tháng 07/2024. Mức trần tỷ trọng phân bổ hạn ngạch cho mỗi quốc gia trong mục “Các quốc gia khác” cũng được điều chỉnh giảm từ 15% về 13%. Do Việt Nam nằm trong danh sách các quốc gia khác nên điều này đồng nghĩa với việc sản lượng HRC được miễn thuế khi xuất khẩu vào EU trong quý 2/2025 của Việt Nam sẽ vào khoảng 111.380 tấn, giảm 19,7% so với mức hạn ngạch trong quý 1/2025. Trong trường hợp mức trần tỷ trọng hạn ngạch trên không thay đổi, chúng tôi ước tính sản lượng HRC được miễn thuế khi xuất khẩu sang EU của Việt Nam trong 2025 có thể đạt 472.906 tấn (giảm 14,9% so với hạn ngạch ước tính trong năm 2024).
Đối với sản phẩm tôn mạ, mức trần tỷ trọng hạn ngạch đối với sản phẩm tôn mạ sản xuất ô tô 4B từ nhóm “Các quốc gia khác” là 20% trong khi đối với sản phẩm tôn mạ 4A là 25%. Điều này đồng nghĩa với việc sản lượng tôn mạ của Việt Nam được miễn thuế khi xuất khẩu đi EU sẽ vào khoảng 139.000 tấn/quý, bao gồm 118.012 tấn/quý đối với sản phẩm tôn mạ 4A và 20.954 tấn/quý đối với tôn mạ sản xuất ô tô 4B. Chúng tôi lưu ý rằng Việt Nam đã xuất khẩu 321.405 tấn tôn mạ vào EU chỉ trong quý 4/2024, chiếm hơn 56% tổng hạn ngạch được cấp cho nhóm “Các quốc gia khác”. Vì vậy, chúng tôi cho rằng việc áp dụng mới mức trần tỷ trọng hạn ngạch hiện tại khả năng cao sẽ khiến sản lượng tôn mạ Việt Nam xuất khẩu đi EU giảm mạnh bắt đầu từ quý 2/2025.

28 thg 2, 2025

Ngành thép

Trong năm 2024, sản lượng tiêu thụ của hầu hết các loại thép tại thị trường nội địa đều tăng trưởng chủ yếu nhờ vào nhu cầu tiêu thụ thép tại cả lĩnh vực xây dựng và công nghiệp duy trì trạng thái tích cực, trong đó:
• Sản lượng thép xây dựng tiêu thụ nội địa tăng 10,2% YoY trong năm 2024
• Sản lượng HRC tiêu thụ nội địa tăng 29,7% YoY trong năm 2024
• Sản lượng tôn mạ tiêu thụ nội địa tăng 18,4% YoY trong năm 2024
Tại thị trường xuất khẩu, sản lượng xuất khẩu tôn mạ và thép xây dựng tiếp tục tăng mạnh svck năm ngoái nhưng tốc độ tăng trưởng đang có dấu hiệu chậm lại trong khi xuất khẩu HRC tiếp tục giảm svck năm ngoái, cụ thể:
• Sản lượng xuất khẩu thép xây dựng tăng 18,9% YoY trong năm 2024
• Sản lượng tôn mạ xuất khẩu tăng 34,5% YoY trong năm 2024
• Sản lượng HRC xuất khẩu giảm -35,9% YoY trong năm 2024
Chúng tôi cập nhật dự phóng tăng trưởng sản lượng các loại thép trong 2025 như sau:
• Sản lượng tiêu thụ thép xây dựng tăng trưởng 6% trong 2025F
• Dự phóng sản lượng tiêu thụ tôn mạ trong 2025F gần như đi ngang so với 2024
• Dự phóng sản lượng tiêu thụ HRC trong 2025 của Formosa và Hòa Phát sẽ tăng trưởng 39% YoY trong 2025F nhờ hỗ trợ từ thuế CBPG HRC tạm thời vừa được công bố.
Chúng tôi tiếp tục kỳ vọng thép xây dựng cùng HRC Trung Quốc hiện đã giao dịch tại vùng giá đáy, biến động trong biên độ hẹp (dưới 5%) và có thể có mức tăng nhẹ trong năm 2025 nhờ vào mức tồn kho thép xây dựng đang ở mức thấp cùng kỳ vọng thị trường bất động sản phục hồi chậm và nhu cầu tiêu thụ thép cho lĩnh vực công nghiệp, hạ tầng duy trì tăng trưởng mức tăng trưởng thấp.

21 thg 2, 2025

Ngành thép

Bộ Công Thương (MOIT) mới đây đã ban hành Quyết định số 460/QĐ-BCT, áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời đối với sản phẩm thép cuộn cán nóng (HRC) từ Trung Quốc và Ấn Độ. Mức thuế này, dao động từ 19,38% đến 27,83%, có hiệu lực trong 120 ngày kể từ ngày 08/03/2025.
VPBankS Research cho rằng đây là thông tin rất tích cực cho các doanh nghiệp sản xuất HRC Việt nam như HPG do mức thuế CBPG công bố cao hơn nhiều mức chênh lệch thường thấy của HRC Việt Nam và HRC Trung Quốc. Chúng tôi lưu ý rằng, giá bán HRC của Hòa Phát và Formosa luôn cao hơn giá HRC nhập khẩu từ Trung Quốc từ 15- 45 USD/tấn (tương ứng với mức chênh lệch 2,9% - 9% so với giá HRC Trung Quốc). Với mức thuế chống bán phá giá như trên, chúng tôi cho rằng sản lượng tiêu thụ HRC tại thị trường nội địa của các doanh nghiệp như HPG, FHS sẽ có động lực để tăng mạnh do sản lượng tiêu thụ HRC hàng năm của 2 doanh nghiệp này mới chỉ đáp ứng được 39% nhu cầu hiện tại.
Đối với các công ty tôn mạ phụ thuộc vào HRC nhập khẩu như HSG, NKG, quyết định này sẽ có tác động tiêu cực. Tuy nhiên nhóm các công ty này đã chủ động giảm thiểu rủi ro này bằng cách đa dạng hóa nguồn HRC đầu vào. Hơn nữa, từ báo cáo tài chính quý 4.2024, chúng tôi nhận thấy các doanh nghiệp này đang ghi nhận giá trị tồn kho nguyên vật liệu cùng hàng mua đi đường ở mức cao hơn so với trung bình, cho thấy có sự tích trữ trước HRC đầu vào trước khi quyết định CBPG được công bố. Vì vậy, trong ngắn hạn, chúng tôi cho rằng tác động tới các doanh nghiệp như HSG, NKG sẽ không đáng kể. Trong dài hạn, các doanh nghiệp tôn mạ sẽ phải chấp nhận sử dụng HRC nội địa hoặc nhập khẩu từ những nguồn khác Trung Quốc với giá HRC cao hơn giá HRC Trung Quốc.

15 thg 1, 2025

Tổng hợp dự báo KQKD 2024

31 thg 12, 2024

Ngành Điện

Triển vọng ngành điện được đánh giá lạc quan khi dự báo nhu cầu điện năm 2025 tiếp tục tăng trên 10%. EVN và Bộ Công thương đã xây dựng những kịch bản dự phòng với nhu cầu hệ thống tăng từ 12%-15%
I. Hoạt động của ngành điện năm 2024
Ngành điện đáp ứng tốt nhu cầu điện cho tăng trưởng kinh tế, sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu ước đạt 310 tỷ kwh, tăng 10,1% so với 2023.
Nhiều chính sách pháp luật được ban hành như Luật Điện lực sửa đổi, thông tư quy định về giá điện năng lượng tái tạo, điện khí nhập khẩu, cơ chế mua bán điện trực tiếp, nhằm quản lý vận hành thị trường điện minh bạch, hiệu quả hơn.
II. Triển vọng ngành năm 2025
Nhu cầu điện dự báo tăng trên 10% trong năm 2025 để đáp ứng nhu cầu điện cho tăng trưởng kinh tế. EVN, Bộ Công thương đã xây dựng những kịch bản dự phòng với nhu cầu tăng từ 12%-15%.
Thủy điện dự báo tiếp tục hồi phục nhờ hình thái thời tiết La Nina, bên cạnh một số dự án thủy điện mở rộng đưa vào hoạt động. Nhiệt điện Than và khí tiếp tục là nguồn điện nền tảng cho hệ thống, lần đầu tiên điện khí nhập khẩu (LNG) được vận hành.
III. Cơ hội đầu tư cổ phiếu ngành điện
Cơ hội đầu tư với những doanh nghiệp có khả năng gia tăng sản lượng phát điện và hiệu quả kinh doanh trong năm 2025

30 thg 12, 2024

Ngành Bất động sản Khu công nghiệp

Dòng vốn FDI sẽ tiếp tục là động lực mạnh mẽ dẫn dắt ngành BĐS KCN. Trong 9T24, dòng vốn FDI đăng kí cũng như giải ngân đã thiết lập mức đỉnh mới trong 5 năm gần nhất với trọng tâm thu hút vốn FDI vẫn là lĩnh vực Công nghiệp, chế biến, chế tạo. Với việc hơn 85% vốn FDI đăng kí mới cho lĩnh vực Công nghiệp, chế biến, chế tạo sẽ được sử dụng cho mục đích đầu tư thuê đất KCN, chúng tôi cho rằng đây là tín hiệu tích cực đảm bảo cho hoạt động của ngành BĐS KCN trong năm 2025. Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng xu hướng chuyển dịch Trung Quốc +1 đang ngày càng rõ ràng hơn khi Việt Nam đang cho thấy những lợi thế nhất định về bức tranh vĩ mô, ổn định địa chính trị cùng với những lợi thế về nguồn nhân lực giá rẻ, chi phí hoạt động thấp để vươn lên đón làn sóng FDI này. Về dài hạn, Việt Nam cũng đang xây dựng lộ trình phát triển để vươn lên trong chuỗi giá trị ngành bán dẫn toàn cầu, nhằm đảm bảo vị thế thu hút vốn FDI.
Nút thắt về nguồn cung dần được nới lỏng để đón dòng vốn FDI. Chúng tôi nhận thấy nút thắt về pháp lý đang dần được nới lỏng sẽ tạo tiền đề cho nguồn cung mới được phê duyệt trong 2 năm tới nhờ: 1) Quyết định 227/QĐ-TTg điều chỉnh chỉ tiêu sử dụng đất KCN của 63 tỉnh/thành phố đã tạo thêm dư địa phê duyệt quỹ đất KCN tại nhiều tỉnh/thành trọng điểm, 2) Quy hoạch sử dụng đất của nhiều tỉnh/thành phố cũng nhanh chóng được hoàn thiện, tạo nên sự đồng nhất với quy hoạch chung của quốc gia.

10 thg 12, 2024

Cập nhật ngành Bán lẻ

Trong 3Q2024, do sự thiệt hại nặng nề của bão Yagi đi kèm với các bất ổn kinh tế xảy ra trước đó, mức độ lạc quan của người dân đã sụt giảm mạnh về mức 69 điểm, thấp hơn đáng kể so với mức 80 điểm của quý liên kề. Tuy nhiên, điểm tích cực là doanh số bản lẻ trong 10T2024 đã đạt 5.25 triệu tỷ, tương đương mức tăng trưởng 8.5% svck. Với tính chất mùa vụ sẵn có của ngành, chúng tôi kỳ vọng doanh số bán lẻ trong các tháng cuối năm sẽ cao hơn đáng kể so với các tháng trước đó, từ đó tổng doanh số bán lẻ trong 2024 sẽ tăng trưởng so với năm 2023.

10 thg 12, 2024

Securities Services Industry

At the end of Q3/2024, the combined market capitalization of stocks listed on the HOSE, HNX, and UPCoM exchanges exceeded VND7,050 trillion (+18.7% yoy), while the VN-Index showed limited fluctuations during Q3 - moving within a narrow range - with monthly changes (both increases and decreases) of less than 3%. The average daily trading value on the VN-Index in Q3/2024 stood at approximately VND 16.6 trillion (-23.4% qoq).

9 thg 12, 2024

Cập nhật Ngành Cảng&Vận tải biển 9T.2024

KQKD đã phản ánh xu hướng phục hồi của ngành Cảng&Vận tải biển trong Q3.2024. Mặc dù doanh thu tăng trưởng yoy, tốc độ tăng trưởng của ngành đã có dấu hiệu chậm lại do mức nền thấp trong 2023 đang dần kết thúc. Đối với ngành vận tải biển, biên LN gộp tăng trưởng mạnh lên 17% (+7 điểm % yoy, +9 điểm % sv quý trước) trong Q3.2024 nhờ giá cước vận tải và cho thuê tàu định hạn giữ ở mức cao yoy. Đối với ngành dịch vụ cảng, biên LN gộp được duy trì ở mức ổn định ở mức 39% trong Q3/24.
Chúng tôi kỳ vọng 2025 sẽ tiếp tục là một năm tươi sáng đối với ngành nhờ (1) giá cước vận tải dự phóng tăng khi lo ngại về chính sách thuế quan dưới thời Trump 2.0 có thể khiến lượng cầu về hàng hóa gia tăng đột biến trong ngắn hạn và (2) lượng hàng hóa thông quan qua hệ thống cảng Việt Nam có thể tiếp tục tăng trưởng 4% yoy.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng nhận thấy xu hướng thông quan hàng hóa và phát triển các cảng nước sâu tại Việt Nam nhờ (1) chính sách định hướng phát triển hạ tầng hệ thống cảng của Chính phủ và (2) nhu cầu đặt hàng tàu cỡ lớn của các hãng tàu hiện nay. Vì vậy, Chúng tôi cho rằng các doanh nghiệp đang khai thác cảng nước sâu sẽ được hưởng lợi từ xu hướng trên; tuy nhiên, điều này cũng tạo sức ép cạnh tranh đối với các cảng sông.

5 thg 12, 2024

Ngành Chứng khoán

Doanh thu hoạt động & LNTT của toàn ngành suy giảm trong Quý 3/2024. Doanh thu hoạt động thuần đạt 16,871 tỷ (-9.1 % Qoq) do ảnh hưởng bởi doanh thu phí môi giới và thu nhập từ hoạt động tự doanh chịu ảnh hưởng từ diễn biến thị trường. Lợi nhuận toàn ngành đạt 6,861 tỷ EBIT & LNTT Q3 lần lượt đạt 9,145 tỷ (-2.8% Qoq) và 6,860 tỷ (-7.5% Qoq)

28 thg 11, 2024

Banking Industry

By the end of 9M2024, PBT reached VND218,206 billion, achieving 74.3% of our forecast for 2024: In Q3/2024 alone, PBT amounted to VND70,143 billion (+18% yoy), surpassing our forecast of a 11% growth and outperforming Q3/2023 results (-1.6% yoy).

28 thg 11, 2024

Cập nhật Ngành Ngân hàng

Tính đến hết 9T2024 LNTT toàn ngành đạt 218,206 tỷ đồng, hoàn thành 74.3% dự báo lợi nhuận cả năm 2024 của chúng tôi. Trong Q3/2024, LNTT đạt 70,143 tỷ đồng (+18% yoy), cao hơn so với dự báo của chúng tôi là 11% và tốt hơn so với cùng kỳ Q3/2023 (-1.6% yoy) với biến số bất ngờ đến từ nguồn thu bất thường của một số ngân hàng. Chúng tôi tiếp tục giữ nguyên quan điểm dự phóng LNTT toàn ngành cho cả năm 2024 là 293,649 tỷ VND (+15% yoy).

25 thg 11, 2024

Cập nhật Ngành thép

Trong Quý 3 và tháng 10 năm 2024, sản lượng tiêu thụ của hầu hết các loại thép tại thị trường nội địa đều tăng trưởng chủ yếu nhờ vào nhu cầu tiêu thụ thép tại cả lĩnh vực xây dựng và công nghiệp duy trì trạng thái tích cực, trong đó:
• Sản lượng thép xây dựng tiêu thụ nội địa tăng 4% YoY trong Q3.2024 và tăng 48% YoY trong tháng 10/2024
• Sản lượng HRC tiêu thụ nội địa tăng 45% YoY trong Q3.2024 và tăng 9% YoY trong tháng 10/2024
• Sản lượng tôn mạ tiêu thụ nội địa tăng 22% YoY trong Q3.2024 và tăng 56% YoY trong tháng 10/2024
Tại thị trường xuất khẩu, sản lượng xuất khẩu tôn mạ và thép xây dựng tiếp tục tăng mạnh svck năm ngoái nhưng tốc độ tăng trưởng đang có dấu hiệu chậm lại trong khi xuất khẩu HRC tiếp tục giảm svck năm ngoái, cụ thể:
• Sản lượng xuất khẩu thép xây dựng tăng 22% YoY trong Q3.2024 và tăng 6,5% YoY trong tháng 10/2024
• Sản lượng tôn mạ xuất khẩu tăng 39% YoY trong Q3.2024 và tăng 24% YoY trong tháng 10/2024
• Sản lượng HRC xuất khẩu giảm 23% YoY trong Q3.2024 và giảm 58% YoY trong tháng 10/2024
Chúng tôi cập nhật dự phóng tăng trưởng sản lượng các loại thép như sau:
• Sản lượng tiêu thụ thép xây dựng tăng trưởng 11%/5% trong 2024F/2025F (không thay đổi)
• Dự phóng tăng trưởng sản lượng tiêu thụ tôn mạ trong 2024 được nâng từ 13,7% lên 30% YoY
• Dự phóng mức điều chỉnh giảm sản lượng tiêu thụ HRC trong 2024 giảm từ -8,7% YoY về -1,6% YoY. Trong khi mức tăng trưởng tiêu thụ HRC trong 2025 điều chỉnh giảm từ 11% YoY về 8% YoY.
Chúng tôi vẫn kỳ vọng thép xây dựng và HRC Trung Quốc hiện đã giao dịch tại vùng giá đáy và biến động trong biên độ hẹp (dưới 5%) nhờ vào mức tồn kho thép xây dựng đang ở mức thấp cùng kỳ vọng thị trường bất động sản phục hồi chậm và nhu cầu tiêu thụ thép cho lĩnh vực công nghiệp, hạ tầng duy trì tăng trưởng.

11 thg 11, 2024

Cập nhật Ngành Bất động sản 9T2024

Lợi nhuận sau thuế (đã trừ lợi ích CĐTS) 9M24 10 đại diện ngành giảm 40.6% svck đạt 21,075 tỷ VND (1,433 tỷ VND, -42.5% YoY) khi loại trừ VHM). Doanh thu 10 đại diện ngành trong kỳ ghi nhận 80,280 tỷ VND, giảm 26% YoY.
Doanh thu tài chính 9M24 10 đại diện ngành giảm 1.7% so với cùng kỳ, đạt 16,897 tỷ VND, chủ yếu đóng góp từ lợi nhuận được chia từ giao dịch bán lô lớn của dự án Vinhomes Royal Island (VHM, 6,294 tỷ VND, tỷ trọng 57%)
Tổng tài sản tới 9M24 đạt 687,087 tỷ VND (+14.6% YTD), tăng so với đầu năm. VHM chiếm tỷ trọng trọng yếu, đóng góp 76.4% vào tổng tài sản cả ngành. Tài sản ngắn hạn chiếm 64%.
Hàng tồn kho ròng tăng nhẹ tăng 7.9% YTD đạt 144,607 tỷ VND với VHM chiếm 40.1% tỷ trọng hàng tồn kho của cả ngành , chủ yếu bao gồm tiền sử dụng đất, chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí xây dựng và phát triển dự án.
Tại 30/09/2024, tổng dư nợ vay của 10 công ty lớn nhất ngành đang ở mức 109,026 tỷ VND (+20.9% YTD) với tỷ lệ Nợ ròng/VCSH = 0.27. Tổng dư nợ trái phiếu 37,725 tỷ VND ,+56.1% so với đầu năm.
CẬP NHẬT TÌNH HÌNH TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP BĐS
10 đại diện ngành có 2,817 tỷ VND giá trị trái phiếu đáo hạn trong cuối năm 2024, chiếm lần lượt 11.3% và 12% giá trị trái phiếu ngành BĐS đáo hạn 4Q24 và 2025 cho thấy rủi ro trái phiếu của top 10 đại diện ngành BĐS trong năm 2024 ở mức thấp so với ngành.

7 thg 10, 2024

Cập nhật Ngành thép

Trong 8T.2024, sản lượng tiêu thụ của hầu hết các loại thép tại thị trường nội địa đều tăng trưởng nhờ vào: (1) Nhu cầu tiêu thụ dần hồi phục tại cả ngành công nghiệp, bất động sản cùng (2) Hiệu ứng nền thấp. Trong khi đó, tại thị trường xuất khẩu, , sản lượng xuất khẩu tôn mạ và thép xây dựng tiếp tục ghi nhận kết quả tích cực trong khi sản lượng xuất khẩu HRC ghi nhận điều chỉnh giảm trong bối cảnh cảnh các công ty tôn mạ dần chuyển sang tiêu thụ nguồn HRC nội địa thay cho nguồn từ Trung Quốc. Trong giai đoạn 2024/2025, chúng tôi dự phóng sản lượng tiêu thụ thép xây dựng và HRC sẽ tiếp tục tăng trưởng trong khi sản lượng tiêu thụ tôn mạ sẽ gần như đi ngang svck trong 2025. Đối với giá thép, chúng tôi kỳ vọng thép xây dựng và HRC Trung Quốc hiện đã giao dịch tại vùng giá đáy nhờ vào thị trường bất động sản phục hồi chậm cùng nhu cầu tiêu thụ tiềm năng từ xây dựng hạ tầng và sản xuất công nghiệp.

30 thg 8, 2024

Cập nhật ngành điện 6T.2024

II. Trong khi sản lượng điện toàn hệ thống Q2 tăng 12,3%, doanh thu các doanh nghiệp tăng nhẹ 2% và đặc biệt LNTT giảm 28,5%. Phân hóa lớn trong nhóm các doanh nghiệp Thủy điện- Nhiệt điện Than- Nhiệt điện khí. Chủ yếu do:
• Sản lượng điện tăng mạnh chủ yếu ở nguồn điện than,
• Giá thị trường điện điều chỉnh giảm 11,2% so với 2023, tỷ lệ alpha (tỷ lệ điện hợp đồng Qc) cho thủy điện tăng lên mức 98%.
• Thủy điện nước về hồ thấp do El Nino, sản lượng thấp, tỷ lệ Alpha (%Qc) cao (98%)
• Nhiệt điện than có giá cạnh tranh tốt, được huy động sản lượng cao nên kết quả kinh doanh tăng tốt (QTP, HND, PPC). Nhiệt điện khí cạnh tranh thấp do giá khí cao, thiếu khí cục bộ, được huy động thấp nên kết quả kinh doanh suy giảm (PGV, POW, NT2, BTP).

29 thg 8, 2024

Ngành Ngân hàng

Ngân hàng Nhà nước nới room tín dụng cho các ngân hàng đạt từ 80% chỉ tiêu được cấp hồi đầu năm

21 thg 8, 2024

Ngành Ngân hàng

Hết 1H2024, LNTT toàn ngành đạt 148,171 tỷ (+16% yoy, hoàn thành 50.5% dự phóng LNTT 2024F toàn ngành của chúng tôi ở mức 293,650 tỷ). Chúng tôi vẫn kỳ vọng LNTT toàn ngành cuối năm vẫn đạt được mức dự phóng của chúng tôi với các động lực thúc đẩy tín dụng từ FDI, XNK, BĐS KCN và tiêu dùng đi kèm nền lãi suất huy động vẫn ở mặt bằng thấp, hỗ trợ cho NIM.
Trong đó, các ngân hàng bán lẻ có công ty tài chính tiêu dùng đạt mức phục hồi tăng trưởng NII đáng kể như HDB (+56% yoy), VPB (+42% yoy) nhưng chúng tôi ghi nhận mức phục hồi vượt trội hơn ở các ngân hàng cho vay bán buôn như TCB (+51% yoy), LPB (+49% yoy). Các ngân hàng này có điểm chung đều là ngân hàng tư nhân, có TTTD vượt trội so với TB ngành (6% ở 1H2024.
Về NIM, chúng tôi cũng ghi nhận môi trường kinh doanh ngành ngân hàng đã trở nên cạnh tranh hơn rất nhiều khi mặt bằng LS cho vay liên tục giảm và dẫn đến 20/27 ngân hàng giảm NIM yoy dù COF được hỗ trợ rất nhiều do mặt bằng LS huy động đã chạm đáy ở Q1/2024. Chúng tôi vẫn kỳ vọng mức NIM toàn ngành về mức 3.75% ở cuối 2024, tương đương mức của Q2/2023. Chúng tôi cũng kỳ vọng các ngân hàng quốc doanh sẽ tích cực hơn trong việc đẩy mạnh tín dụng bán lẻ do các ngân hàng quốc doanh có thể mất thị phần nhanh hơn về tay các ngân hàng tư nhân nếu không tham gia kịp thời thị trường bán lẻ.
Các ngân hàng nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn với Bancassurance, đặc biệt là mảng bảo hiểm nhân thọ trước khi Thông tư 34/2024/TT-NHNN được ban hành.
NPL toàn ngành tiếp tục tăng lên mức 2.22%, tăng 5 bps qoq, tăng 29 bps ytd. Nợ xấu toàn ngành tăng cao chủ yếu do ảnh hưởng CIC toàn hệ thống ở khối KHCN và SME, đi cùng với việc thu hồi nợ xấu chưa quá tích cực trong bối cảnh thị trường BĐS vẫn chưa sôi động trở lại do mặt bằng giá nhà vẫn neo ở mức cao so với thu nhập người dân.
Trong 1H2024, chỉ có 12/27 ngân hàng có diễn biến giá giao dịch vượt trội hơn so với VNIndex.

7 thg 8, 2024

Ngành Bán lẻ

NGÀNH BÁN LẺ:
KHẢ QUAN: Ngành bán lẻ ghi nhận nhiều dấu hiệu tích cực khi mức độ lạc quan của người tiêu dùng trong thời gian tới đã tăng lên mức 80, cao hơn hẳn so với thời điểm cuối năm 2023. Doanh số ngành bán lẻ trong năm 2023 và 7 tháng đầu năm 2024 lần lượt đạt 6,2 triệu tỷ và 3,6 triệu tỷ đồng, tương ứng tốc độ tăng trưởng là 9,7% và 8,7%. Tuy nhiên, nếu loại trừ yếu tố tăng giá, mức tăng so với cùng kỳ trong 7 tháng đầu năm 2024 chỉ đạt 5,2%, cho thấy tiêu dùng trong nước vẫn chưa hoàn toàn hồi phục.
Mảng ICT & CE: Nhu cầu mua sắm các sản phẩm ICT & CE đã dần hồi phục sau một năm sụt giảm mạnh. Cụ thể, doanh thu trong 1H2024 của các doanh nghiệp trong ngành tăng trưởng trở lại.
Mảng bách hóa: Ý thức về an toàn thực phẩm của người dân đã gia tăng đáng kể, thúc đẩy ngành bán lẻ hàng bách hóa. Người tiêu dùng dần tập trung nhiều hơn vào sức khỏe thay vì giá rẻ. Các kênh bán hàng hiện đại như siêu thị mini và mua sắm online dự kiến sẽ gia tăng thị phần, trong khi các kênh truyền thống như chợ và tạp hóa sẽ suy giảm.
Mảng trang sức: Trang sức được đánh giá là sản phẩm tiêu dùng không thiết yếu do nhu cầu vàng tại Việt Nam chủ yếu là tích trữ. Tổng nhu cầu vàng thỏi của người dân lên đến 78% từ năm 2010 đến hiện tại. Ngành trang sức không mang tính ổn định, đặc biệt đã sụt giảm mạnh trong thời điểm COVID-19 và hồi phục mạnh trở lại trong năm 2022, nhưng không bền vững khi đã suy giảm trở lại trong năm 2023.
Mảng dược phẩm: Ngành dược phẩm Việt Nam đã có nhiều thay đổi tích cực từ thời điểm COVID-19 bùng phát, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm đạt 16,9% trong giai đoạn 2018-2023.

31 thg 5, 2024

Báo cáo cập nhật ngành điện Q1.2024

Nhu cầu phụ tải tăng trưởng mạnh 12.5% trong 5 tháng đầu năm, mức cao nhất trong 8 năm qua.
Bước sang năm 2024, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt từ 6.0%-6.5%, tăng trưởng sản xuất công nghiệp và xây dựng dự báo hồi phục mạnh mẽ đưa nhu cầu điện tăng trưởng cao. Bộ Công thương- EVN xây dựng kế hoạch nhu cầu điện tăng từ 9-10% trong năm 2024 với sản lượng điện có thể đạt từ 300-308 tỷ kwh. Trong quý 1.2024, sản lượng điện sản xuất tăng mạnh 11.8% đạt 69.4 tỷ kwh, đến hết tháng 5, nhu cầu phụ tải tăng 12,5%, mức cao nhất trong 8 năm qua. EVN đã xây dựng bổ sung các phương án cao hơn từ 310,6 tỷ kwh (+10,7%) và 313,4 tỷ kwh (11,4%) để đáp ứng đầy đủ nhu cầu điện cho phát triển kinh tế.
Kết quả kinh doanh quý 1 của các doanh nghiệp phát điện trên sàn cho thấy còn nhiều thách thức phía trước. Sự phân hóa rõ nét giữa các doanh nghiệp Thủy điện, Nhiệt điện Than và Khí. Với nền tảng cơ bản là nhu cầu điện tăng mạnh trong năm 2024, cơ hội cho các doanh nghiệp ngành điện gia tăng sản lượng phát điện, gia tăng hiệu quả hoạt động trong những quý tiếp theo của năm 2024 và đưa đến những cơ hội đầu tư hấp dẫn trong ngắn hạn và trung hạn.

29 thg 5, 2024

Industrial Property sector 1Q24

In this 40-page Industrial property (IP) report, we emphasize that now is a good time to pay attention to IP sector despite disapointing 1Q24 earnings results. We believe Vietnam is well-positioned to capture FDI inflows in next coming years thanks to 1) catching the movement waves of many electronic manufacturers from China +1, 2) more competitive cost structure compared to regional peers, 3) improved investment landscape when the tax issue was resolved.
With a bright outlook for the IP sector, we believe some leading stocks will be prime candidates to diversify investment portfolios.

28 thg 5, 2024

Ngành BĐS Khu công nghiệp Q1/24

Trong Q1/24, nhóm doanh nghiệp BĐS Khu công nghiệp đã chia sẻ bức tranh chung về KQKD suy giảm, tuy nhiên trong đó vẫn có những gam màu tương phản của từng doanh nghiệp với vị thế dẫn dắt toàn ngành như GVR, BCM, VGC và đáng chú ý tới từ KBC và IDC…
Mặc dù KQKD còn ảm đạm trong quý mở đầu năm 2024, tuy nhiên chúng tôi cho rằng BĐS Khu công nghiệp vẫn là một trong những nhóm ngành có triển vọng tươi sáng cho cả năm 2024 nhờ theo dấu dòng vốn FDI mạnh mẽ đổ vào Việt Nam khi các yếu tố hỗ trợ dần xuất hiện rõ ràng.

24 thg 5, 2024

Ngành Thép

Bức tranh kết quả kinh doanh quý 1 của ngành thép nhìn chung vẫn ghi nhận sự phân hóa rõ rệt khi phần lớn sự phục hồi vẫn đang tập trung ở các nhóm doanh nghiệp lớn đầu ngành. Mức tăng trưởng tốt từ nền thấp dự kiến sẽ còn được duy trì trong Q2/2024 nhưng sẽ hạ nhiệt dần trong nửa sau của năm 2024 khi các yếu tố then chốt về đầu ra là thị trường xây dựng dân dụng, bất động sản chưa có những tín hiệu hồi phục đáng kể.

23 thg 5, 2024

KQKD Q1/2024

LNTT của các DNNY sàn HSX và HNX quý 1/2024 tăng trưởng gần 3% so với cùng kỳ, nhưng bức tranh có sự phân hóa sâu sắc giữa các ngành. Bán lẻ, tài nguyên cơ bản, xây dựng và vật liệu xây dựng có LNTT Q1.2024 tăng mạnh so với cùng kỳ, cho thấy lợi nhuận đã tạo đáy, vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Dịch vụ tài chính tăng trưởng hơn 100% so với cùng kỳ về LNTT, với động lực từ tăng trưởng tài sản tài chính, margin, hứa hẹn triển vọng duy trì được đà tăng trưởng trong năm 2024. Ngân hàng duy trì được mức tăng trưởng ổn định với mức định giá vẫn còn hấp dẫn. Bất động sản đang phục hồi chậm hơn kỳ vọng cho cả nhóm bất động sản công nghiệp và bất động sản dân cư. Nhóm cổ phiếu dầu khí, điện nước xăng dầu khí đốt có sự phân hóa mạnh mẽ về KQKD nhưng có nhiều cơ hội đầu tư với triển vọng tích cực trong giai đoạn còn lại của 2024. Dịch vụ du lịch và giải trí phục hồi rất mạnh so với cùng kỳ 2023, nhờ vào lợi nhuận đột biến của HVN. Tình hình kinh doanh của ngành hàng không có cải thiện đáng kể so với cùng kỳ nhưng cần thêm nhiều thời gian để lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh cốt lõi có sự bứt phá với ngành Du lịch giải trí.

8 thg 4, 2024

Vietnam Banks

In 2024, we forecast that listed banks' pre-tax profit (PBT) will grow by 15% year-on-year (YoY), reaching VND 293,650 billion. The credit growth target for 2024 is set at 15% and has been delegated to individual banks to maximize flexibility. Assuming banks utilize around 90% of their credit room, credit growth in 2024 is projected to reach approximately 14.83%. For loan to deposit ratio (LDR), banks are setting their own targets for 2024, with an average target of around 16%. However, some large banks, such as ACB, LPB, TPB, and VCB, have set LDR growth targets below the government's overall target. Net interest margin (NIM) is expected to recover to 3.75% in 2024, with larger banks likely to achieve higher NIMs. Valuation-wise, both P/E and P/B ratios for the banking sector are still below their historical averages from 2013, indicating that the sector remains attractively priced.

8 thg 4, 2024

Ngành Ngân hàng

Năm 2024, chúng tôi dự báo LNTT toàn ngành ngân hàng niêm yết sẽ tăng trưởng ở mức 15% yoy, tương đương đạt 293,650 tỷ. Năm 2024, mục tiêu TTTD là 15% và được giao hết cho các ngân hàng để phát huy tối đa tính linh hoạt. Chúng tôi đang dự phóng với kịch bản các ngân hàng đẩy được khoảng 90% room tín dụng thì chúng ta sẽ có TTTD 2024 khoảng 14.83%. Về KHKD TTTD, trung bình các ngân hàng dự kiến TTTD khoảng 16%, trong đó có một số ngân hàng lớn đặt chỉ tiêu tăng trưởng dưới mức TTTD mục tiêu của Chính phủ như ACB, LPB, TPB, VCB. Năm 2024, chúng tôi kỳ vọng NIM phục hồi lên mức 3.75%, đồng thời các ngân hàng lớn sẽ lấy lại được mức NIM cao hơn. Về mặt định giá chúng tôi thấy cả P/E và P/B ngành đều chưa chạm tới mức trung bình từ 2013 nên ngành vẫn đang giao dịch ở mức khá hấp dẫn.

2 thg 4, 2024

Ngành Bất động sản Khu công nghiệp

Dòng vốn FDI mạnh mẽ là yếu tố chính thúc đẩy cho hoạt động tích cực của toàn ngành Bất động sản Khu công nghiệp trong năm 2023. Bước sang năm 2024, chúng tôi cho rằng Bất động sản Khu công nghiệp vẫn tiếp tục là một trong những ngành nghề cho triển vọng tươi sáng khi những yếu tố hỗ trợ ngày càng xuất hiện rõ ràng.
Xu hướng đối lập về nguồn cung mới giữa 2 trung tâm Khu công nghiệp lớn nhất cả nước: miền Nam và miền Bắc trong bối cảnh nhu cầu thuê đất Khu công nghiệp vẫn ở mức cao, sẽ tiếp tục định hướng điểm đến thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 2024-2026.
Chúng tôi cho rằng Việt Nam đang có vị thế vững chắc trong thu hút và sẵn sàng đón làn sóng FDI mới nhờ (1) xu hướng chuyển dịch Trung Quốc +1 của các tập đoàn công nghệ, điện tử hàng đầu sang Việt Nam ngày càng rõ ràng hơn, (2) Chi phí hoạt động cạnh tranh giúp Việt Nam nổi lên là điểm đến phù hợp so với các quốc gia trong khu vực, (3) nút thắt về Thuế tối thiểu toàn cầu đã được tháo gỡ giúp cải thiện môi trường lãi suất.

29 thg 3, 2024

Triển vọng Kinh tế 2024

Chu kỳ nới lỏng chính sách sẽ tiếp tục hỗ trợ thị trường tăng trưởng. Xu hướng phục hồi về lợi nhuận đang tiếp diễn mặc dù còn phân hóa giữa các nhóm ngành. Định giá TTCK Việt Nam hiện tại đã điều chỉnh về mức thấp hơn mức trung bình 10 năm. Lợi nhuận tạo đáy trong năm 2023 và kỳ vọng phục hồi trong năm 2024. Dự báo xu hướng thanh khoản và điểm số năm 2024 ở vùng 1,322. Các ngành khả quan trong năm 2024: Ngân hàng, Chứng khoán, BĐS Nhà ở, BĐS KCN, ĐTC, VLXD, Thép, Điện và Năng lượng, Dầu khí, Bán lẻ, Vận tải và Cảng biển.

15 thg 1, 2024

Ngành Dầu khí

Giá dầu trong năm 2023 đã có những biến động mạnh trước những yếu tố cung cầu, tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ và địa chính trị. Kết thúc năm 2023 giá dầu giảm lần đầu tiên trong 3 năm qua, trung bình giảm 10%-11% so với năm 2022.
Bước sang năm 2024, giá dầu hiện đang chịu sức ép giảm giá do những lo ngại về nhu cầu tăng chậm trong khi nguồn cung tăng, đặc biệt là từ các nước ngoài OPEC+. Tuy vậy vẫn có thể lạc quan về thị trường dầu khí nửa cuối năm 2024 khi lãi suất bắt đầu hạ nhiệt, kinh tế hồi phục tốt hơn, nhu cầu dầu khí tăng lên.
Với những thành quả đạt được trong năm 2023, ngành Dầu khí Việt Nam tiếp tục có những phát triển trong năm 2024 với những Cơ hội và Thách thức đan xen... Dựa trên những đánh giá thị trường và tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp, Chúng tôi đánh giá Trung lập về triển vọng ngành Dầu khí trong năm 2024.

27 thg 12, 2023

Ngành Bất động sản Khu công nghiệp

Chúng tôi tin rằng đà tăng trưởng giải ngân FDI sẽ tiếp tục. Cơ sở cho nhận định này được củng cố bởi sự gia tăng đáng kể của các dự án FDI đăng ký mới, kết hợp với xu hướng tăng đang dán đoạn trước đại dịch. Những rào cản đã và đang giảm bớt, thay vào đó là các yếu tố thúc đẩy nhu cầu đầu tư.Sự khan hiếm các khu công nghiệp có thể sắp xảy ra và điều này đang đẩy giá lên cao khi nguồn cung mới của các khu công nghiệp không còn nhiều. Hơn nữa, giá cho thuê đất công nghiệp tăng mạnh kể từ khi Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 96/2019/ND-CP liên quan đến khung giá đất cụ thể. loại và khu vực. Theo đó, hệ số giá đất bồi thường ở nhiều tỉnh năm nay đều tăng.

13 thg 12, 2023

Ngành Bất động sản dân cư

Các công ty nghiên cứu thị trường đều cho rằng thị trường sẽ có dấu hiệu phục hồi trong Q4/2023, và kỳ vọng mức phục hồi đáng kể hơn từ Q2/2024 hoặc Q3/2024. Dự báo này nhìn chung thận trọng hơn một chút so với kỳ vọng trước đây, dựa trên quan sát của chúng tôi.
Hiện tại chúng tôi quan sát thị trường bất động sản đã có sự khởi sắc bước đầu về chính sách (bước đầu gỡ khó về pháp lý cũng như đã thông qua Luật kinh doanh BĐS và Luật Nhà ở), lãi suất cho vay các khoản vay BĐS mới ở mức ~10.5% cho các khoản vay từ 12 tháng là hấp dẫn nhưng lãi suất cho vay các khoản vay trước vẫn còn cao, theo đó tâm lý NĐT vẫn còn thận trọng; về phía cung các công ty BĐS vẫn đang đối mặt nhiều thử thách đặc biệt là ở khâu huy động vốn.
Chúng tôi cho rằng các giao dịch trên thị trường sơ cấp trong các tháng tới sẽ chủ yếu đến từ các giai đoạn tiếp theo tại các dự án đã triển khai/hiện hữu trong khi việc triển khai dự án mới sẽ không thể hồi phục nhanh chóng do chủ đầu tư cần nhiều thời gian để (1) thu hút sự quan tâm của thị trường và xây dựng chiến lược bán hàng phù hợp và/hoặc (2) giải quyết các vấn đề pháp lý và khởi công xây dựng trước khi mở bán.

7 thg 12, 2023

Ngành Ngân hàng

Chúng tôi dự phóng GDP năm 2023 sẽ rơi vào khoảng 5.59% và 2024 vào khoảng 6.45% với các giả định đầu tư công được thúc đẩy hơn vào 2024, nhu cầu SXKD, XNK và tiêu dùng bán lẻ phục hồi hơn.
Chúng tôi dự báo tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 9.6%-10.7% trong năm 2023 khi lãi suất cho vay tăng mạnh vào cuối 2022 chỉ mới được điều chỉnh vào cuối Q1/2023 và trên nền tăng trưởng tín dụng thấp, trong khi các rủi ro liên quan trái phiếu doanh nghiệp và BĐS cùng bất ổn chính trị trên thế giới vẫn tiếp diễn, đồng thời NHNN vẫn luôn phải hết sức chú ý giữ ổn định vĩ mô (lạm phát, tỷ giá).
Triển vọng 2024: Trung lập với ngành Ngân hàng, khó khăn tiếp diễn ở nửa đầu năm, hy vọng tia sáng ở nửa cuối năm. Kỳ vọng các ngân hàng cải thiện TTTD do có động lực từ FDI (do việc nâng cấp quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ và Nhật Bản), XNK (kỳ vọng nhu cầu nhập khẩu của thế giới phục hồi), Nhu cầu vay trong nước phục hồi (chính sách giảm thuế VAT và các chính sách hỗ trợ thị trường khác).

17 thg 11, 2023

Ngành Xây dựng hạ tầng

Tài liệu chương trình Tiêu điểm tuần - Chủ điểm đầu tư công: Tăng Tốc

27 thg 10, 2023

Ngành Ngân hàng

Tài liệu chương trình Tiêu điểm tuần - Ngành Ngân hàng

24 thg 11, 2023

Ngành Điện

Tài liệu chương trình Tiêu điểm tuần - Ngành Điện

18 thg 10, 2023

Ngành Thép

Ngành thép Việt Nam đang dần bước ra khỏi bóng tối. Tuy vậy, những tín hiệu phục hồi chưa thật sự chắc chắn và bền vững để đưa ngành trở lại chu kỳ tăng trưởng. Nhà đầu tư sẽ cần theo dõi thêm vận động nhóm ngành trong thời gian tới. Chi tiết có thể tham khảo tại báo cáo.

9 thg 10, 2023

Ngành Dầu khí

- Giá dầu đã hồi phục khoảng 30% trong quý 3.2023 lên mức 92-95 usd/ thùng với dầu Brent nhờ dự báo nhu cầu dầu tiêu thụ dầu thế giới trong 6 tháng cuối năm tăng lên vượt mức trước khi đại dịch Covid19, cùng với đó là nguồn cung tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ từ nhóm các nước OPEC+. Giá dầu được nhiều tổ chức dự báo sẽ đạt mức 92-95 usd/thùng trong quý 4.2023.
- Giá dầu hồi phục và neo ở mức cao tiếp tục tác động tích cực đến kết quả kinh doanh của ngành dầu khí trong ngắn hạn 6 tháng cuối năm 2023 và trung dài hạn giai đoạn 2023-2026 khi có thêm động lực thúc đẩy tiến độ đầu tư các dự án lớn của ngành dầu khí trong nước.
- Hết 9 tháng đầu năm 2023, Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN) đạt 643 tỷ đồng doanh thu, hoàn thành 95% kế hoạch cả năm. Lợi nhuận trước thuế đạt 42,5 nghìn tỷ đồng, đạt 122% kế hoạch cả năm. Nộp ngân sách đạt 102,4 nghìn tỷ đồng, đạt 116% kế hoạch cả năm.
- Dự báo kết quả kinh doanh một số doanh nghiệp lớn trong ngành có mức tăng trưởng lợi nhuận 6 tháng cuối năm 2023 so với cùng kỳ từ 41%-81%. Cơ hội đầu tư vào một số cổ phiếu ngành dầu khí hấp dẫn với lợi nhuận kỳ vọng từ 20%-25% cho 12 tháng tới.

4 thg 10, 2023

Ngành Ngân hàng

- Việc giảm tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn xuống mức 30% sẽ làm chi phí vốn sẽ bị đẩy lên cao, đồng thời ép biên lãi ròng NIM xuống, ảnh hưởng đến lợi nhuận các ngân hàng trong ngắn hạn. Trong dài hạn, đây là một bước tiến góp phần tăng chất lượng tài sản của các ngân hàng.
- Việc SBV đồng ý cho phép các ngân hàng tăng vốn điều lệ cùng với việc hút 110,000 tỷ tín phiếu do thanh khoản dư thừa góp phần làm giảm áp lực lên các ngân hàng trong việc đưa tỷ lệ này về theo đúng quy định. Chính sách này cũng là động lực cho các ngân hàng phát hành giấy tờ có giá, trái phiếu với kỳ hạn dài đi cùng với việc thúc đẩy dư nợ tín dụng trung và dài hạn để góp phần làm tăng tổng nguồn vốn trung hạn và dài hạn được sử dụng để cho vay trung hạn.
- Hiện tại trong 10 ngân hàng có công bố tỷ lệ này ở thời điểm 2Q2023, chúng tôi nhận thấy MSB và TCB đang có tỷ lệ này ở mức trên 30%, cụ thể lần lượt ở 31.9% và 31.6%. Ngoài ra như trường hợp của HDB có tỷ lệ 9.2% - thấp nhất trong 10 ngân hàng có công bố hầu như sẽ không bị ảnh hưởng bởi chính sách này. Theo công bố của SBV vào tháng 07/2023, khối NHTM Nhà nước có tỷ lệ này ở mức trung bình là 24.97% - khá an toàn hơn so với khối NHTM Cổ phần là 32.66%. Toàn hệ thống đang ở mức dưới 30%, cụ thể là 26.14%, nên việc đưa tỷ lệ này về mức quy định sẽ là khả thi đối với các ngân hàng ở thời điểm thanh khoản dư thừa như hiện tại.

29 thg 8, 2023

Ngành Bất động sản dân cư

Trong báo cáo lần trước, chúng tôi đã khuyến nghị giữ thái độ thận trọng đối với lĩnh vực BĐS nhà ở nhưng nhấn mạnh rằng sự điều chỉnh quá sâu do tâm lý nếu có là cơ hội để xây dựng danh mục nắm giữ dài hạn đối với các công ty BĐS có năng lực triển khai dự án và không sử dụng quá nhiều nợ vay. Tại thời điểm hiện tại, chúng tôi tiếp tục giữ vững quan điểm, tuy nhiên chúng tôi có bổ sung thêm chủ đề đầu tư 02 hướng về các doanh nghiệp chịu áp lực tài chính nhưng có khả năng vượt qua khó khăn, kỳ vọng chuyển mình (turnaround).

25 thg 8, 2023

Ngành Ngân hàng

Thời kỳ khó khăn nhất đã qua, dù thách thức vẫn còn đó nhưng mức độ không nghiêm trọng như các dự báo vào đầu năm. KQKD các ngân hàng có sự phân hóa, những ngân hàng có lợi thế cạnh tranh rõ rệt về tiềm lực tài chính, tệp khách hàng và chất lượng tài sản sẽ được hưởng lợi.

11 thg 8, 2023

Ngành Xây dựng hạ tầng

Chúng tôi tin rằng kết quả kinh doanh Ngành xây dựng hạ tầng sẽ khả quan ở thời điểm cuối năm 2023 và đầu năm 2024, nhờ:
(1) Kế hoạch đầu tư công kỷ lục năm 2023, và kết quả giải ngân 13 tháng luôn đạt trên 90% kế hoạch thủ tướng chính phủ giao từ năm 2020
(2) Tỷ trọng giải ngân lớn cho bộ GTVT nói riêng và lĩnh vực giao thông nói chung, đã phản ánh một phần lên KQKD 6 tháng đầu năm 2023
Chi tiết các căn cứ, phân tích, và các cổ phiếu tiêu biểu được trình bày báo cáo.

10 thg 7, 2023

Ngành Chăm sóc sức khỏe

Ngành Chăm sóc sức khỏe Việt Nam còn nhiều dư địa để phát triển. Triển vọng ngành còn tích cực do Việt Nam đang là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế giới, nhận thức của người tiêu dùng đối với chăm sóc sức khỏe ngày càng cao đặc biệt là sau đại dịch và thu nhập của người dân cũng tăng cao, góp phần thúc đẩy chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe. Ngành Chăm sóc sức khỏe nói chung sẽ có tiềm năng lớn khi phát triển các sản phẩm chăm sóc cho lứa tuổi này. Môi trường sống bị ô nhiễm, lối sống thiếu lành mạnh và đồ ăn thiếu vệ sinh là nguyên nhân gây ra các bệnh mãn tính đòi hỏi điều trị và chăm sóc lâu dài khiến nhu cầu đối với các loại dược phẩm điều trị những bệnh này gia tăng. Các doanh nghiệp bán lẻ hàng đầu Việt Nam phủ sóng thị trường và tham gia cuộc cạnh tranh thị phần khốc liệt (Long Châu, Pharmacity, An Khang,…). Các doanh nghiệp sản xuất dược liên tục tìm cơ hội liên kết hợp tác với các doanh nghiệp ở nước ngoài để nâng cao năng lực. Song song là đầu tư lớn vào các dây chuyền sản xuất, giấy chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế để mở rộng việc xuất khẩu. Các bệnh viên tư nhân liên tục mở rộng quy mô, được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư mạnh mẽ để giành lấy thị phần phân khúc trung và thượng lưu từ các cơ sở công lập và những bệnh nhân sang nước ngoài khám chữa bệnh.

6 thg 6, 2023

Ngành Ngân hàng

Năm 2023, một số thay đổi về hành lang pháp lý sẽ giúp giảm căng thẳng về mặt thanh khoản cho toàn ngành ngân hàng cũng như giúp tăng dư địa để xử lý nợ xấu từ thị trường BĐS. Lợi nhuận của ngành sẽ bị ảnh hưởng trong 1H2023. VPBankS Research khuyến nghị: VPB, STB, ACB.

23 thg 3, 2023

Ngành Bất động sản dân cư

Trong báo cáo BĐS nhà ở lần này, chúng tôi chọn cách tiếp cận bắt đầu từ kết quả hiện tại, sau đó nhận diện được các duyên xúc tác hay “giọt nước tràn ly”, từ đó tìm hiểu sâu nguyên nhân cốt lõi đưa đến kết quả như đã thấy.
Một khi nguyên nhân đã xác định rõ, chúng tôi đưa ra các khuyến nghị chính sách và triển vọng trong các năm sau, có tham khảo các bài học kinh nghiệm trong quá khứ cùng nhìn vào kinh nghiệm của thị trường BĐS lớn và có nhiều điểm tương đồng với thị trường BĐS Việt Nam – thị trường BĐS Trung Quốc.
Cuối cùng, quan sát rằng BĐS luôn chiếm 70-200% tài sản ròng của người Việt Nam (Nguồn: Vinaliving), thực tế BĐS luôn là kênh đầu tư yêu thích của người Việt - chúng tôi phân tích các yếu tố tác động đến cung & cầu BĐS trong dài hạn và khẳng định tiềm năng của kênh đầu tư này mặc dù đâu đó, các thách thức vẫn song hành tồn tại…

15 thg 5, 2023

Ngành Thủy điện

Theo quy hoạch điện VIII, dù tổng công suất thủy điện vẫn tăng qua các giai đoạn, tỷ trọng đóng góp của thủy điện trong tổng nguồn điện sẽ giảm, tập trung phát triển thủy điện tích năng. Tuy vậy, nhờ lợi thế về tính linh hoạt, khả năng điều tiết điện năng cũng như giá thành thấp, thủy điện vẫn luôn được ưu tiên huy động .Với cơ chế giá mua điện ưu đãi và được bao tiêu toàn bộ theo Biểu giá chi phí tránh được, các dự án thủy điện nhỏ (dưới 30 MW) vẫn có mức sinh lời khá hấp dẫn. Việc mặt bằng lãi suất tăng sẽ khiến chi phí lãi vay của các khoản vay theo lãi suất thả nổi tăng theo, trong khi nguồn vốn ODA và tín dụng ưu đãi của các tổ chức tín dụng quốc tế đã giảm dần, các đơn vị không còn được tiếp cận với nguồn vốn giá rẻ để đầu tư cho các dự án điện như trước đây.

15 thg 5, 2023

Ngành Điện gió

Quy hoạch điện VIII được phê duyệt vào ngày 15/05/2023 đã đưa ra định hướng ưu tiên đẩy mạnh phát triển điện gió, nâng tỷ trọng công suất điện gió trên bờ và ngoài khơi lên mức 14.5% và 4% tổng công suất toàn hệ thống vào năm 2030. Tiềm năng điện gió trên bờ và ngoài khơi ước tính là 221 GW và 600 GW. Nhờ các chính sách ưu đãi từ Chính phủ, tổng công suất điện gió đã tăng trưởng mạnh trong các năm gần đây, từ 135 MW vào năm 2015 lên 300 MW vào năm 2018 và tiếp đó là gần 4 GW vào năm 2022, chiếm tỷ trọng 5.1% toàn hệ thống. Chính phủ cần phát triển quy mô lưới điện và sớm đưa ra cơ chế giá điện gió hợp lý để khuyến khích các dự án mới, chấm dứt tình trạng đóng băng hiện tại của ngành điện gió.

31 thg 5, 2023

Ngành Điện mặt trời

Với sự bùng nổ tăng trưởng của thị trường Điện mặt trời trong giai đoạn 2020 – 2021, cho nên tăng trưởng giai đoạn 2022 – 2030 không được khuyến khích tích cực. Công suất thiết Điện mặt trời theo kế hoạch dự kiến sẽ xây dựng lặp đặt đấu nối vào lưới điện quốc gia là 19.7 GW đến năm 2030 (tỷ trọng 14%) và 168.5 GW đến năm 2050 (tỷ trọng 34.4%). Tổng sản lượng sản xuất dự kiến trong năm 2030 là 31.4 nghìn GWh (tỷ trọng 5.5%) và 252.1 nghìn GWh năm 2050 (tỷ trọng 20.6%).
Tuy nhiên chúng tôi cho rằng, các dự án ĐMTMN theo mô hình SOM và TOM vẫn được thúc đẩy mạnh mẽ, vì Quy hoạch điện VIII đã đưa ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 có 50% các tòa nhà công sở và 50% nhà dân sử dụng điện mặt trời mái nhà tự sản, tự tiêu (phục vụ tiêu thụ tại chỗ, không bán điện vào hệ thống điện quốc gia).
Do giá thiết bị, chi phí xây dựng và lạm phát tăng, LCOE trung bình cho các dự án năng lượng tái tạo mới ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương đã tăng lên, ngoại trừ dự án Gió ngoài khơi. Sự gia tăng của LCOE vào năm 2022 được thúc đẩy bởi CAPEX và lãi suất cao hơn, với CAPEX cho Điện mặt trời tăng 16% kể từ năm 2020. Trong năm 2023, LCOE của Điện mặt trời được ước tính giảm xuống $87/MWh, đến năm 2030 chỉ còn $40/MWh

  • 7
    Trang 3
bottom of page